Tỷ phú truyền thông Murdoch là ông trùm trong đế chế xuất bản của nước Mỹ, vốn đi lên từ khốn khó và tự mình làm nên tất cả từ hai bàn tay trắng.
Tỷ phú truyền thông Murdoch là ông trùm trong đế chế xuất bản của nước Mỹ, vốn đi lên từ khốn khó và tự mình làm nên tất cả từ hai bàn tay trắng.
Một người sở hữu hơn 400 công ty và tổng tài sản trị giá hàng tỷ đô rõ ràng đã làm nhiều thứ rất chuẩn xác và đặc biệt thành công.
Richard Branson được nhiều ngưỡng mộ bởi sự kiên cường của ông, bởi những thương hiệu cá nhân mà ông định hình và phát triển.
Mời quý độc giả theo dõi VOV.VN trên
Đối với thế hệ du học sinh Việt Nam những năm 70-80 của thế kỷ trước, Liên Xô luôn vĩ đại và và thiêng liêng như quê hương thứ hai, với những con người thật phúc hậu, nhân ái.
- Đối với thế hệ du học sinh Việt Nam những năm 70-80 của thế kỷ trước, Liên Xô luôn vĩ đại và và thiêng liêng như quê hương thứ hai, với những con người thật phúc hậu, nhân ái, luôn yêu thương và giúp đỡ người Việt Nam như người thân trong gia đình mình.
Ngày kỷ niệm 100 năm Cách mạng Tháng Mười Nga, ký ức trong tôi về một chặng đường học tập và tu nghiệp ở Liên bang Xô-viết lại ùa về.
Năm ấy, 1975, tôi cùng với hàng trăm sinh viên trẻ bắt đầu lên tàu sang Liên Xô. Điểm đến của chúng tôi là Tashkent, thủ đô của nước Cộng hòa XHCN Xô-viết Uzbekistan thuộc Liên bang Xô-viết, nay là Cộng hòa Uzbekistan. Chúng tôi là những sinh viên thi đỗ Đại học đạt điểm cao, được Nhà nước chọn cử đi học với học bổng hỗ trợ hoàn toàn của Chính quyền Xô viết. Giai đoạn đó, mỗi năm, Việt Nam có tới 600 học sinh được cử sang Liên Xô học tập.
Chúng tôi phải trải qua 1 năm học Khoa Dự bị tại Đại học Tổng hợp Tashkent trước khi được bố trí về học các chuyên ngành khác nhau trong hệ thống các trường đại học thuộc Liên bang Xô-viết.
Nhưng có lẽ, một năm ngắn ngủi ấy lại đọng lại những ấn tượng sâu đậm nhất trong tôi- một chàng sinh viên mới 17 tuổi, lần đầu đặt chân tới một đất nước vĩ đại, thiêng liêng, nơi được coi là thành trì của Chủ nghĩa xã hội và đang cưu mang biết bao nước nghèo.
Khoa dự bị của Đại học Tổng hợp Tashkent nằm biệt lập với khu trường chính ở ngay trung tâm thành phố, trên đường Bogdan Khmennitsky, trong một tòa nhà cổ kính, có sân vườn rộng.
Vừa mới tới nơi, các anh chị sinh viên khoá trên người Việt, vốn từ nhiều trường khác nhau trong nước như Đại học Tổng hợp, Bách khoa, Y khoa, Nông nghiệp đã ngay lập tức đến thăm hỏi, giúp đỡ, xoá tan ngay thứ cảm giác lo lắng, bỡ ngỡ ban đầu. Và cũng có thể, các anh trai khoá trên ấy chỉ muốn đến “coi mặt” các bạn nữ người Việt mới sang để kết bạn mà thôi?!
Sau này, chính các anh chị ấy đã dạy chúng tôi tất cả những việc cần biết của một sinh viên du học, từ việc tự cắt tóc, tự may quần áo cho đến chụp ảnh, tráng phim, phóng rửa ảnh,... và thậm chí, rủ đi dã ngoại, chơi thể thao.
Thời điểm nhập học đã là cuối hè, đầu thu, chúng tôi được nhà trường đưa đi mua sắm quần áo ấm ở Cửa hàng Bách hóa tổng hợp. Đồ dùng học tập được nhà trường cấp miễn phí. Ngoài ra, chúng tôi còn có học bổng 70 rúp một tháng được dùng cho ăn uống, sinh hoạt.
Cô giáo chủ nhiệm lớp tôi tên là Elena, người Ucraina, có chồng là sỹ quan Hồng quân đang phục vụ ở Trung Á. Cô có gương mặt phúc hậu và đặc biệt, rất yêu học sinh Việt Nam. Như một lẽ tự nhiên, những sinh viên người Việt ngày đó, ai ai cũng đều chung một cảm nhận rằng, trong trái tim những con người Liên Xô ấy luôn là một sự sẻ chia, đồng cảm và sẵn lòng giúp đỡ những người Việt Nam- đến từ đất nước nghèo khó bởi chiến tranh trong cả học tập lẫn sinh hoạt thường nhật.
Cũng nhờ tiếp xúc với những con người thân thiện đó, tiếng Nga của chúng tôi tốt lên nhanh chóng và cũng dần dễ dàng học được các môn tự nhiên khác bằng tiếng Nga. Đây là bước quan trọng để tiếp cận dần các từ ngữ, thuật ngữ khoa học chuyên ngành, phục vụ cho việc nghe giảng ở các trường đại học sau này.
Thời tiết ở Tashkent là thời tiết sa mạc, lạnh vào mùa đông và rất khô, nóng vào mùa hè, có khi nóng tới 40 độ. Ngay trong một mùa, nhiệt độ giữa ngày và đêm cũng chênh lệch hàng chục độ.
Mùa đông năm đó, chúng tôi được trường cho đi nghỉ đông ở làng Kumushkan, cách không xa Tashkent. Lần đầu tiên tôi được nhìn tuyết rơi, một hình ảnh rất thú vị. Tất cả lũ sinh viên chúng tôi như những đứa trẻ mới lớn, lao ra sân nghịch tuyết, vo tuyết lại và ném vào nhau.
Mùa hè, chúng tôi được đi chơi ở hồ thủy lợi Tuyabugus, thường gọi là Tashmore, cách thành phố Tashkent khoảng 30 km về phía Nam, rồi tham gia các đội xây dựng của sinh viên gọi là stroyotriad.
Phải nói rằng, cuộc sống của du học sinh thuở ấy mà Liên Xô dành cho chúng tôi- đẹp và long lanh như một giấc mơ: hoạt động văn nghệ, thể thao sôi nổi, với thú vui chung tiền mua máy quay đĩa loại sách tay, mua các đĩa nhạc của Beatles, Humperdinck,… của Anh hay Samosvetu, Pesnjaru, Sinnaya Ptitsa,… của Nga về nghe.
Hương vị của món mỳ Lakhman, gạo nấu Plov và thịt cừu nướng kiểu Uzbek vẫn còn rõ nét. Và mặc dù bị cấm yêu đương hay xem phim Mỹ thì chúng tôi vẫn cảm thấy rất háo hức mon men ra công viên gần trường chỉ để xem nhảy đầm trong dịp cuối tuần hay lễ hội.
Tất nhiên, đối với lưu học sinh chúng tôi, tập trung học luôn là nhiệm vụ tiên quyết và trọng yếu. Lớp chúng tôi không đơn thuần chỉ như một lớp học, mà còn là một tổ chức có đơn vị trưởng, có lãnh đạo, có chi đoàn, có cấp ủy. Trong tâm khảm mỗi sinh viên, việc học là một trách nhiệm cao cả, rèn luyện, tu dưỡng để trở về cống hiến cho Tổ quốc. Nếu để điểm kém, để bị phê bình là điều tối kỵ đáng xấu hổ nhất.
Nói thêm về thủ đô Tashkent của Uzbekistan, khi đó, nơi đây vẫn đang trong quá trình xây dựng lại sau khi bị san phẳng bởi trận động đất lớn 9 năm trước. Thành phố nổi tiếng của Trung Á cổ đại vẫn chưa có metro. Đến năm 1991, khi Liên bang Liên Xô tan ra, Uzbekistan trở thành quốc gia độc lập.
Một điểm khá đặc biệt ở quốc gia này là mặc dù, có rất nhiều nhóm sắc tộc khác như người Nga, Tajik, Kazakh, Karakalpak hay và Tatar…, nhiều tôn giáo như Hồi giáo, Nhà thờ chính thống Phương Đông, Phật giáo hay Do thái giáo, nhưng chúng tôi hoàn toàn không cảm nhận được sự cách biệt giữa các dân tộc và tôn giáo. Tất cả người dân ở đây đều hết mực thân thiện, quý mến và luôn sẵn lòng giúp đỡ các sinh viên Việt Nam.
Cho tới tận bây giờ, dù hàng chục năm trôi qua, khoá chúng tôi vẫn hay gặp nhau. Rất nhiều người trong chúng tôi, sau khi học tập và tu nghiệp ở Liên Xô ngày đó, đã về nước thành đạt, giữ nhiều trọng trách trong bộ máy nhà nước.
Chẳng hạn như anh Lương Phan Cừ, cựu sinh viên luật Đại học Tổng hợp Tashkent, sau nhiều khóa làm đại biểu Quốc hội, nay là Chủ tịch Hội Hữu nghị Việt Nam-Uzbekistan, anh Đặng Quang Phương, nguyên Phó Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, anh Lê Hưng Quốc, nguyên Phó Giám đốc Sở Ngoại vụ, nguyên Chủ tịch Liên hiệp các tổ chức hữu nghị TP Hồ Chí Minh, giáo sư Nguyễn Đăng Dung, Đại học Quốc gia Hà Nội...
Quãng thời gian ấy hẳn luôn là thước phim sống động và đẹp nhất trong cuộc đời sinh viên chúng tôi. Dù thế giới có nhiều đổi thay, Liên Xô vẫn luôn là quê hương thứ 2 để chúng tôi hướng về với nhiều xúc cảm hoài niệm thiêng liêng.
(Nguyên Phó Chủ nhiệm Uỷ ban Tài chính- ngân sách của Quốc hội, cựu sinh viên Khoa dự bị, Đại học Tổng hợp Tashkent khoá 1975-1976, cựu sinh viên Đại học Trắc địa, đo đạc hàng không và bản đồ Moskva, Liên xô)
Tháng 10-1941, Liên Xô đứng trước tình thế nguy kịch. Trong những trận quyết đấu gần thành phố Vyazma cách thủ đô Moskva 200 km, Hồng quân Liên Xô đã tổn thất lên đến 1 triệu người thương vong và bị bắt làm tù binh. Đường tiến vào Moskva lúc này rộng mở đối với quân phát-xít Đức.
Lúc bấy giờ, các sư đoàn tinh nhuệ từ Siberia, Ural và Viễn Đông vẫn chưa kịp đến để bảo vệ thủ đô, Bộ chỉ huy quân sự Liên Xô đang phải kìm chân kẻ địch bằng tất cả lực lượng hiện có. Tuy nhiên, quân Đức vẫn liên tục tiến lên và ngày 2-12-1941, các đơn vị thuộc Sư đoàn xe tăng số 2 của chúng đã chiếm làng Krasnaya Polyanka cách Điện Kremlin chỉ 30 km.
Bộ chỉ huy của Đức Quốc xã tin rằng, sự thất bại của Hồng quân Liên Xô là không tránh khỏi. Hy vọng vào đợt tấn công quyết định cuối cùng, chúng không thèm để ý rằng, sau những đòn phản công liên tục của Liên Xô, quân Đức đã bị kiệt sức và quá căng thẳng, còn các sư đoàn xe tăng và cơ giới thì rất vất vả để vượt qua những bãi mìn dày đặc trên đường tiến đánh Moskva. Ngoài ra, lúc đó bắt đầu xuất hiện những vấn đề về tiếp tế và nạn dịch khiến ngựa chết hàng loạt do thiếu thức ăn và mùa đông khắc nghiệt.
Ngày 5-12, điều hoàn toàn bất ngờ xảy ra với quân địch, khi Mặt trận phía Tây của Nguyên soái Georgy Zhukov và Mặt trân Tây-Nam của Nguyên soái Konstantin Timoshenko chuyển sang phản công quy mô lớn. Bị giáng đòn mạnh, quân Đức đang bị kiệt sức bắt đầu nhanh chóng bỏ chạy khỏi Moskva, thậm chí một số nơi sự rút lui này biến thành cuộc tháo chạy trong hoảng loạn. Đến đầu tháng 1-1942, quân phát-xít mới ổn định được mặt trận.
“Cuộc tấn công vào Moskva đã thất bại. Toàn bộ những tổn thất và nỗ lực của quân chúng ta là vô ích”, tướng Đức Quốc xã Heinz Guderian viết trong cuốn “Hồi ký người lính” của mình. Chiến lược “chiến tranh chớp nhoáng” của quân phát-xít hoàn toàn phá sản. Quân Đức bị đánh bật cách Moskva 100-250 km không còn là mối đe dọa nghiêm trọng đối với thủ đô của Liên Xô nữa.
Sau khi đánh bại quân đội Liên Xô ở Kharkov vào tháng 5-1942, quân Đức có cơ hội tấn công quy mô lớn theo hướng những mỏ dầu ở Kavkaz và hướng Stalingrad – trung tâm công nghiệp lớn của Liên Xô và nút giao thông quan trọng trên dòng Volga. Việc mất Stalingrad có thể trở thành thảm họa thực sự đối với Hồng quân Liên Xô.
Những đợt ném bom quy mô lớn và những cuộc giao tranh ác liệt trên đường phố đã phá hủy gần như hoàn toàn thành phố. Chống trả quân Đức trong tuyệt vọng, các đơn vị của Tập đoàn quân số 62 buộc phải rút về sông Volga, nơi đang cố thủ đến cùng trên những mảnh đất nhỏ thuộc khu vực nhà máy “Krasny Oktyabr” và “Barrikady”.
Ngày 19-11-1942, chờ cho đến khi Tập đoàn quân số 6 của Đức mắc kẹt lại trong thành phố, quân đội Liên Xô bắt đầu tấn công quy mô lớn vào các cánh của địch được bảo vệ kém. Chọc thủng hàng phòng ngự của chúng, Hồng quân Liên Xô khép chặt vòng vây xung quanh cụm quân địch có 330 nghìn binh tại Stalingrad, đến đầu tháng 2-1943 thì bị tiêu diệt hoàn toàn. Trong cuộc chiến thuộc hàng đẫm máu nhất lịch sử thế giới này, hai bên chịu thương vong tổng cộng lên đến 2 triệu người. Thất bại trong trận Stalingrad trở thành cú sốc thực sự đối với Đức Quốc xã và những kẻ đồng minh của chúng.
Mùa hè năm 1943, quân Đức chuẩn bị tấn công quy mô lớn vào trung tâm mặt trận Xô-Đức ở khu vực Kursk. Sau khi đánh bại Hồng quân Liên Xô theo hướng này, quân phát-xít tính trở lại thế chủ động chiến lược bị đánh mất sau thảm họa ở Stalingrad.
Sự tính toán của Đức về một cuộc tấn công bất ngờ là không phù hợp. Tình báo quân sự Liên Xô đã kịp thời phát hiện quân địch chuẩn bị chiến dịch “Thành trì” và thậm chí còn ấn định ngày mở cuộc tấn công là 5-7-1943.
Trong trận vòng cung Kursk, hai bên tham gia lên đến 2 triệu quân, 4.000 máy bay và 6.000 xe tăng. Đây là trận đánh có nhiều xe tăng nhất trong lịch sử.
Trên các hướng tấn công chính, quân phát-xít gặp phải sự chống trả kiên cường của binh sĩ Liên Xô, trong một tuần chúng chỉ tiến quân được 10 km. Đại đội trưởng Đại đội pháo cối Evgeny Okishev nhớ lại: “Trận đánh diễn ra cam go và căng thẳng đến nỗi bây giờ tôi vẫn nhớ như in cảm giác của mình rằng, đến cuối ngày tôi sẽ rất vui nếu mình bị thương hoặc bị giết... Bởi lúc đó thần kinh rất căng thẳng, trời thì nắng nóng, tiếp tế thì không có… Những công sự của chúng tôi trên điểm cao bị quân Đức khống chế bằng hỏa lực”.
Đứng vững trước đợt tấn công của quân phát-xít, Hồng quân Liên Xô chuyển sang phản công quy mô lớn, khiến cho kẻ địch đã bị suy yếu thất bại. Quân Đức Quốc xã cuối cùng mất thế chủ động trong cuộc chiến chống Liên Xô và bắt đầu tháo chạy về phía Tây.
Mùa hè năm 1944, Hồng quân Liên Xô sử dụng chính thứ vũ khí của quân Đức Quốc xã để chống lại chúng, đó là chiến lược “chiến tranh chớp nhoáng”. Chiến lược này cho thấy, Hồng quân có khả năng trong thời gian ngắn phối hợp sử dụng hợp lý các binh đoàn xe tăng và lực lượng không quân để chọc thủng tuyến phòng ngự mạnh của kẻ địch, bao vây và nhanh chóng tiêu diệt các cụm quân phát-xít.
Cuộc tấn công quy mô lớn của Liên Xô bắt đầu ngày 23-6-1944 nhằm vào cụm các Tập đoàn quân “Trung tâm” tại Belarus là hoàn toàn bất ngờ với Bộ chỉ huy của Đức Quốc xã. Chúng nghĩ rằng, hướng ưu tiên trong đòn tấn công chính của Hồng quân vẫn sẽ là Ukraine, bởi qua đó có thể tiến đánh các mỏ dầu của Romania.
Chiến dịch tấn công “Bagration” kéo dài hơn hai tháng. Trong thời gian đó, quân đội Liên Xô tiến về phía Tây 600km, giải phóng lãnh thổ Belarus và một phần miền Đông Ba Lan, đồng thời mở đường tiến đến Warsaw (Varsava) và Đông Prussia. Cụm các Tập đoàn quân “Trung tâm” chịu tổn thất lên đến 500.000 quân thương vong và bị bắt làm tù binh, sau đó thực tế thì không còn tồn tại nữa.
Du kích quân Belarus đã đóng vai trò chính trong chiến dịch “Bagration”. Họ không những chỉ ra những vị trí yếu nhất trong hàng phòng thủ của kẻ địch, mà còn tấn công từ hậu phương, từ đó hỗ trợ đắc lực cho lực lượng tấn công vào những thời điểm mang tính quyết định. Nguyên soái Ivan Bagramyan trong cuốn hồi ký “Đường đến chiến thắng” viết: “Danh sách những đoàn xe lửa của quân phát-xít bị trật đường ray ngày càng tăng. Thực tế, tuyến giao thông bằng đường sắt của quân phát-xít đã bị tê liệt. Chúng không hề dễ dàng di chuyển trên đường bộ. Tại đây ngày cũng như đêm, không lúc nào du kích quân cho chúng được yên».
Ngày 17-7-1944, những hàng tù binh Đức bị bắt trong các trận đánh ở Belarus được dẫn giải trên đường phố Moskva. Tham gia “cuộc diễu hành của những kẻ bại trận” này tại thủ đô Liên Xô có tổng cộng 57 nghìn binh lính và sĩ quan Đức, trong đó có hàng chục tướng lĩnh.
Để tấn công thủ đô của Đức Quốc xã, Bộ chỉ huy quân sự Liên Xô huy động lực lượng với quân số hơn 2 triệu người, nhằm đánh tan 800 nghìn quân phát-xít. Berlin đã được quân Đức biến thành pháo đài kiên cố, còn trên đường tiến vào thành phố được xây dựng các tuyến phòng ngự theo chiều sâu.
Ngày 20-4-1945, đội pháo binh tầm xa thuộc Quân đoàn bộ binh số 79 chúc mừng sinh nhật trùm phát-xít Hitler bằng đòn pháo kích đầu tiên vào Berlin. Năm ngày sau, thành phố đã bị Hồng quân Liên Xô khép vào vòng vây.
Trong vòng gần một tuần đã diễn ra các cuộc giao tranh ác liệt giành Berlin. Quân Đức biến từng con phố thành tuyến phòng thủ được dựng lên bằng chiến lũy, hầm trú ẩn, chiến hào và ụ súng máy. Quân đội Liên Xô càng tiến đến gần trung tâm, thì càng vấp phải sự chống trả ác liệt.
Ngày 30-4-1945, bắt đầu nổ ra trận đánh chiếm tòa nhà quốc hội Đức. Mặc dù sáng sớm ngày 1-5 trên nóc tòa nhà đã treo cờ đỏ chiến thắng, nhưng hai bên vẫn tiếp tục bắn nhau suốt ngày.
Sau khi trùm phát-xít Hitler tự tử, ngày 30-4-1945, ban lãnh đạo mới của Đức Quốc xã đã đề nghị Bộ chỉ huy quân sự Liên Xô ký kết hiệp định ngừng bắn. Đáp lại, phía Liên Xô tuyên bố chỉ chấp nhận đầu hàng vô điều kiện. Phía Đức từ chối, giao tranh với thế lực mới lại bắt đầu, dù kéo dài không lâu. Ngày 2-5-1945, đội phòng vệ Berlin tuyên bố đầu hàng.
Nguyên soái Georgy Zhukov từng viết: “Các chiến sĩ của chúng ta trong các cuộc giao tranh đều tỏ ra rất hưng phấn, anh dũng và táo bạo. Sự trưởng thành và lớn mạnh của quân đội chúng ta trong những năm tháng chiến tranh đã được thể hiện hoàn toàn trong trận Berlin. Trong chiến dịch Berlin, những người lính, binh sĩ, sĩ quan và tướng lĩnh đã cho thấy họ là những người trưởng thành, cương quyết và cực kỳ gan dạ”.
Tổng cộng hơn 75.000 quân lính Liên Xô đã hy sinh trong trận chiến giành Berlin.
Đến tháng 1-1943, sự thất bại của Quân đội Đức Quốc xã trong Trận Stalingrad là hiển nhiên. Cuộc đụng độ hoành tráng này đã thay đổi tiến trình của Thế chiến II kéo dài sáu tháng rưỡi. Liên Xô đã mất hơn 1 triệu binh sĩ, trong khi quân Đức tử vong là 950.000. Quân đoàn quân số 6 dưới sự chỉ huy của Trung tướng Friedrich Paulus cuối cùng đã bị bao vây và tiêu diệt.
Vào ngày thứ hai đến ngày cuối cùng của trận chiến, trùm Đức Quốc xã Adolf Hitler đã thăng cấp cho Paulus lên thống chế. Trong thông điệp cuối cùng của mình, Hitler đã đưa ra một mệnh lệnh rõ ràng: "Không một thống chế Đức nào từng bị bắt làm tù binh". Hitler mong Paulus tự sát khi bị Liên Xô bắt, nhưng Thống chế Paulus đã chọn cuộc sống và đầu hàng vào ngày 31-1-1943.
Nguyên soái Friedrich Paulus của Đức tại Trụ sở Hồng quân để thẩm vấn vào ngày 1-3-1943.
Đối với Moscow, sự đầu hàng của Thống chế Paulus rất quan trọng không chỉ về mặt uy tín. Sau cuộc xâm lược của Đức Quốc xã, chính phủ Liên Xô cho những người cộng sản Đức đến ẩn náu ở Liên Xô vào những năm 1930 và thành lập một tổ chức chống phát xít.
Sau thất bại tại Stalingrad, làm suy yếu niềm tin vào chiến thắng của Đức, khoảng 91.000 binh sĩ Wehrmacht đã bị bắt làm tù binh - đây một dịp khá tốt cho sự ra mắt của tổ chức chống phát xít. Wehrmacht là tên thống nhất của các lực lượng vũ trang quân đội Đức Quốc xã từ năm 1935 đến năm 1945. Wehrmacht bao gồm Heer, Kriegsmarine và Luftwaffe. Đây là lượng chiến đấu chính của Đức trong Chiến tranh thế giới thứ hai, được đánh giá là lực lượng quân đội hùng mạnh nhất thế giới vào thời điểm này.
Vào tháng 7-1943, Liên Xô đã thành lập Ủy ban Quốc gia về một nước Đức tự do, và sau đó là Liên minh các quan chức Đức dưới sự giám sát của Tướng Walther Kurt von Seydlitz-Kurzbach bị bắt. Tuy nhiên, để tuyên truyền chống phát xít thành công, Kurzbach là không đủ. Chính phủ Liên Xô cần một người Đức rất nổi tiếng, một người như Thống chế Paulus.
Những người làm việc cùng thời với Thống chế Paulus cho biết, ông là một người lính có trách nhiệm và chu đáo, và một sĩ quan tham mưu nghiêm khắc. Cụ thể, ông đã tham gia phát triển Chiến dịch Barbarossa khét tiếng xâm lược Liên Xô.
Trong chiến tranh, trước khi đánh trận Stalingrad, Paulus làm trưởng phòng, thực tế làm công việc giấy tờ ở mặt trận nhà. "Lệnh bổ nhiệm Paulus làm Tư lệnh Quân đoàn 6 năm 1942 là một sai lầm chết người. Trước đó, ông ta thậm chí còn không chỉ huy một trung đoàn", Wieder viết.
Một điểm yếu khác của Paulus, theo Wieder, là niềm tin mù quáng của người này vào Hitler. Việc ông ta từ chối tự tử về cơ bản là trường hợp đầu tiên mà một sĩ quan từ chối tuân theo ý muốn của lãnh đạo. Tuy nhiên, ngay cả khi bị bắt làm tù binh, nguyên soái cho biết ông vẫn là một người xã hội chủ nghĩa.
Paulus ở trại tù binh Kriegsgefangenschaft.
Khi phát hiện ra việc thành lập Liên minh chống phát xít Đức, Paulus ban đầu "lên án mạnh mẽ liên minh và bằng văn bản từ bỏ tất cả tù binh Đức tham gia", nhà sử học Mikhail Burtsev nói.
Khi đó, Liên Xô sử dụng các đòn tâm lý nên Paulus đã thay đổi quan điểm của mình. Lúc đó người bạn của Paulus là Đại tướng Erwin von Wirzleben bị xử tử tại Đức, vì đã tham gia vào âm mưu chống Hitler tháng 7-1944, điều này cũng đóng một vai trò quan trọng làm cho nguyên soái Paulus chán Hitler. Từ đó Paulus bắt đầu thấy bản thân cũng chỉ là một quân bài của Hitler.
Vào ngày 8-8-1944, một năm rưỡi sau khi bị bắt làm tù binh, Paulus đã nói chuyện trên Đài phát thanh Đức và nói với những người lính Wehrmacht. "Đối với Đức, chiến tranh đã chấm dứt. Đức phải từ bỏ Hitler".
Đó là bài phát biểu chống Hitler đầu tiên nhưng không phải cuối cùng của Paulus. Ông gia nhập hàng ngũ của Liên minh các quan chức Đức và nhiều lần kêu gọi người dân Đức chống lại Hitler. Sau đó ông có những bài phát biểu chống phát xít mạnh mẽ.
Paulus làm việc trong Chính phủ Liên Xô, sau này ông là nhà tư vấn chính cho bộ phim của đạo diễn Vladimir Petrov về Trận chiến Stalingrad (1949). Sau khi Stalin qua đời, Paulus đã xin chuyển về quê hương Dresden ở Đông Đức và qua đời vì bệnh năm 1957.
Ông sinh ngày 23-9-1890 tại Breitenau, Hesse-Nassau, Đức, là con trai của một giáo viên. Thời thanh niên, Paulus đã xin vào làm học viên của Học viện Kaiserliche Marine (Hải quân Đế quốc Đức) nhưng không thành. Sau đó, ông nộp đơn xin học luật tại trường đại học Marburg. Nhưng một thời gian sau ông bỏ trường đại học. Tháng 2- 1910, Paulus gia nhập quân đội, phục vụ trong Trung đoàn bộ binh 111 với tư cách là một sĩ quan thực tập. Paulus lập gia đình với bà Elena Rosetti-Solescu vào ngày 4-7-1912.
Khi Chiến tranh thế giới thứ nhất nổ ra, trung đoàn của Paulus tham gia mũi tấn công vào nước Pháp. Một thời gian sau đó, Paulus là sĩ quan tham mưu phục vụ trong Quân đoàn Alpen (Alpenkorps) cho đến hết chiến tranh. Kết thúc Thế chiến I, Paulus mang quân hàm đại úy.
Sau Hiệp ước Versailles, Paulus được chỉ định vào chức vụ Đại đội trưởng trong Trung đoàn Bộ binh 13 ở Stuttgart (1921-1933), rồi chỉ huy trưởng tiểu đoàn môtô cơ giới (1934-1935), trước khi trở thành Tham mưu trưởng lực lượng Thiết giáp Panzer vào tháng 10-1935, Paulus được phân công nhiệm vụ tổ chức và xây dựng 3 sư đoàn Panzer.
Paulus đã nói chuyện trên Đài phát thanh Đức kêu gọi quân Đức từ bỏ Hitler.
Tháng 5-1939, Paulus được thăng Thiếu tướng và làm Tham mưu trưởng Tập đoàn quân X tấn công Ba Lan. Qua 2 chiến dịch, đơn vị được đổi thành Tập đoàn quân VI và chinh chiến qua các mặt trận Hà Lan và Bỉ.
Tháng 8-1940, Paulus được thăng Trung tướng và được cử làm Tham mưu phó Lục quân, trên cương vị này, Paulus tham mưu chiến dịch đánh chiếm Liên Xô. Tháng 1-1942, Paulus là Tư lệnh Tập đoàn quân VI trong mũi tiến công đến thành phố Stalingrad, nhưng đã bị quân Liên Xô đánh bại và kêu gọi Paulus đầu hàng.
Nếu Paulus đầu hàng, Liên Xô sẽ cung cấp thực phẩm cho binh sĩ của ông ta, người bị thương, bị bệnh và cóng lạnh sẽ được điều trị. Tất cả tù binh có thể giữ lại quân phù, huy chương và vật dụng cá nhân.
Paulus có 24 tiếng đồng hồ để trả lời. Paulus lập tức báo cho Hitler về nội dung tối hậu thư của Liên Xô và yêu cầu được tự do hành động. Hitler bác bỏ yêu cầu của ông. Buổi sáng ngày 10-1, 24 giờ sau khi thời hạn đầu hàng đã hết, quân Liên Xô mở đợt tấn công bằng trận địa pháo với 5.000 viên đạn đại bác.
Trận chiến diễn ra dữ dội trong vòng 6 ngày, quân Đức co cụm lại còn phân nửa diện tích với phòng tuyến dài 24 kilômét và rộng 15 kilômét. Đến ngày 24-1- 1943, quân Đức bị cắt ra làm hai khu vực và mất quyền kiểm soát đường băng khẩn cấp cuối cùng. Máy bay Đức không còn có thể hạ cánh để mang đến hàng hậu cần, nhất là thuốc men cho thương bệnh binh.
Một lần nữa, quân Liên Xô cho đối phương của họ một cơ hội để đầu hàng. Đại diện phía Liên Xô đến phòng tuyến của Đức với lời đề nghị đối với Paulus.
Một lần nữa, bị giằng co giữa nghĩa vụ phải tuân lệnh lãnh tụ điên rồ với trách nhiệm cứu vớt các binh sĩ còn lại để tránh cho họ bị tiêu diệt, Paulus kêu gọi đến Hitler: "Binh sĩ không còn đạn và thức ăn... Không còn có thể chỉ huy được hiệu quả... 18.000 thương binh không có đồ tiếp tế hoặc bông băng hoặc dược phẩm... Tiếp tục phòng thủ là vô nghĩa. Sụp đổ là không tránh khỏi. Đại đoàn yêu cầu được phép đầu hàng ngay để cứu vớt số binh sĩ còn lại".
Nhưng Hitler cấm đầu hàng và bắt Quân đoàn 6 phải giữ vững vị trí cho đến người cuối cùng và viên đạn cuối cùng. Ngày 30-1, Paulus gọi vô tuyến cho Hitler: "Sự sụp đổ cuối cùng sẽ đến trong vòng 24 tiếng đồng hồ".
Tin báo này khiến cho Bộ Tư lệnh tối cao của Hitler ban một cơn mưa thăng thưởng cho các sĩ quan, với hy vọng là những vinh dự như thế sẽ củng cố quyết tâm muốn hy sinh một cách vinh quang ngay tại mặt trận đẫm máu. Hitler phong cho Paulus, qua sóng vô tuyến, quân hàm Thống chế. Khoảng 117 sĩ quan khác cũng được thăng cấp. Đấy là một động thái trong trò ma quỷ: Hitler muốn Paulus chiến đấu cho đến chết.
Các cánh quân của Đức đã bị quân Liên Xô đánh tan. Vào lúc này, 91.000 chiến binh Đức - kể cả 24 tướng lĩnh đang đói khát, cóng lạnh, nhiều người mang thương tích, tất cả đều đau khổ, níu lấy tấm chăn lấm máu phủ lên người chống lại giá lạnh ở -24°C, đi khập khiễng trên lớp băng tuyết hướng đến các trại tù binh ở Siberi.
Trừ 20.000 quân Rumani và 29.000 thương binh đã được đưa về bằng máy bay, đấy là tất cả những gì còn lại của một Tập đoàn quân có quân số 285.000 người chỉ hai tháng trước. Trong số 91.000 người vào ngày mùa đông bị bắt làm tù binh.
Tại tổng hành dinh, nhà độc tài Quốc xã Hitler nhiếc móc các tướng lĩnh ở Stalingrad, và nói rằng "đáng lẽ họ phải củng cố hàng ngũ, phân tán mỏng, và tự bắn vào mình với viên đạn cuối cùng... Con người ấy (Paulus) đáng lẽ phải tự kết liễu đời mình như những tư lệnh thuở xưa gieo mình lên thanh gươm của họ khi thấy đã thất bại...".
Vào tháng 8-1944, Paulus lên tiếng trên đài phát thanh Moscow kêu gọi Quân đội Đức loại trừ Hitler.
Trận Stalingrad đánh dấu điểm ngoặt quan trọng trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Sau chiến tranh, Paulus đã ra làm nhân chứng trong Tòa án Nürnberg xử các lãnh tụ phát xít Đức.
Năm 1953, Paulus được thả. 2 năm sau đó, toàn bộ những tù binh Đức còn sống sót (chủ yếu là tù binh sau trận Stalingrad) cũng được phía Liên Xô cho hồi hương. Trong số 91.000 tù binh Đức, chỉ còn khoảng 6.000 người trở về nhà.
Paulus trở thành thanh tra cảnh sát tại Dresden, Cộng hòa dân chủ Đức đến lúc cuối đời. Ông mất ngày 1-2- 1957 vì một căn bệnh thần kinh.
Lễ tưởng niệm Binh đoàn Bất tử lần đầu được tổ chức tại thành phố Tomsk, Nga, năm 2012 đến nay đã lan rộng ra nhiều nước trên thế giới với hàng triệu người tham dự.
lễ tưởng niệm Binh đoàn Bất tử Israel Anh Pháp Đức lễ tưởng niệm Binh đoàn Bất tử Ngày Chiến thắng chiến thắng phát xít Hồng quân Liên Xô Liên Xô Nga Đức Thế chiến 2
Dưới đây là 10 thác nước nổi tiếng nhất thế giới có thể bạn chưa biết.
Thác Jog tạo ra bởi con sông Sharavathi, có độ cao 253 mét. Đây là thác nước cao thứ hai ở Ấn Độ. Nằm gần Sagara, Karnataka, thác Jog hàng năm thu hút một lượng lớn khách du lịch. Nó còn có tên gọi khác là thác Gersoppa. Trước mùa mưa, dòng nước ở đây chỉ là những dòng suối nhỏ chảy xuống vách đá. Nhưng vào mùa, thác Jog thay đổi hoàn toàn trở nên mạnh mẽ và hùng vĩ cả về chiều cao và thể tích nước.
Gullfoss có nghĩa là “ thác vàng”. Đây là một trong những thác nước nổi tiếng nhất và đẹp nhất của Iceland. Gullfoss cao 32 mét, dòng nước trắng xóa mạnh mẽ nhờ mùa mưa thường xuyên đã khiến nó trở thành thác nước lớn nhất về khối lượng nước ở châu Âu
Thác Bản Giốc là thác nước nằm giữa biên giới Việt Nam và Trung Quốc, đây là thác nước giữa biên giới hai nước lớn thứ 4 thế giới, sau Niagara, Victoria và Iguazu. Thác chảy xuống từ độ cao 30 mét, được chia thành ba thác nhờ các tảng đá và cây xanh. Vào mùa mưa, từ xa bạn có thể dễ dàng nghe tiếng thác đổ ầm ầm xuống, đập vào vách đá.
Thác Blue Nile là thác nước trên sông Blue Nile ở Ethiopia. Nó được gọi là Tis Abay ở Amharic, có nghĩa là “ khói nước". Thác nằm trên đường thượng của sông, khoảng 30 km về phía hạ lưu từ thị trấn Bahir Dar và hồ Tana. Mặc dù phần lớn lượng nước được chuyển hướng đến một đập thủy điện, nhưng Blue Nile vẫn là một kì quan và một trong những điểm thu hút khách du lịch nổi tiếng nhất của Ethiopia.
Vinnufossen là thác nước cao nhất ở châu Âu và cao thứ sáu trên thế giới. Thác nằm ở phía đông ngôi làng Sunndalsøra, huyện Møre og Romsdal, Na Uy. Thác là một phần của sông Vinnu chảy xuống từ núi Vinnufjellet. Dòng thác chảy vào sông Driva gần ngôi làng Hoelsand.
Thác Kaieteur là thác nước có lưu lượng lớn trên sông Potaro ở trung tâm Guyana, khu vực Potaro-Siparuni. Nó nằm trong Công viên Quốc gia Kaieteur. Đây là một trong những thác nước hùng mạnh nhất trên thế giới, trung bình mỗi giây, thác đổ xuống một lượng nước 663 mét khối. Với chiều cao 226 mét, thác Kaieteủ cao gấp 5 lần thác Niagara và hai lần thác Victoria.
Thác Angel là thác nước cao nhất thế giới. Nó có độ cao 979m và độ dốc 807 mét. Nó cao đến nỗi nước gần như biến mất dưới áp lực của gió. Khi rơi xuống đến mặt đất, nước chỉ còn là những hạt bụi nhỏ li ti.
Thác Niagara là một trong những thác nước nổi tiếng nhất trên thế giới. Nó bao gồm 3 thác nước là Thác Hoa Kỳ, Thác Bridal Veil và Thác Horseshoe nằm ngang ranh giới quốc tế giữa tỉnh Ontario của Canada và bang New York của nước Mỹ. Chúng tạo thành cực nam của Niagara Gorge. Thác Horseshoe nằm ở phía Canada trong khi phần còn lại của Niagara nằm ở New York. Với hơn 14 triệu du khách mỗi năm, đây là một trong những điểm thu hút khách du lịch nhiều nhất trên thế giới.
Thác Victoria nằm trên sông Zambezi ở biên giới Zambia và Zimbabwe. Đây là thác nước lớn nhất trên thế giới, mặc dù nó không phải là cao nhất cũng không rộng nhất. Nó có chiều rộng 1,7 km và chiều cao 108 mét, cao gấp hai lần thác Niagara ở Bắc Mỹ. Kết hợp cả chiều cao và chiều rộng thì Victory chỉ có một đối thủ là thác Iguazu của Nam Mỹ.
Được phát hiện bởi một nhà thám hiểm người Tây Ban Nha, Álvar Núñez Cabeza de Vaca, vào năm 1541, Iguaza là một trong những kỳ quan thiên nhiên tuyệt vời của thế giới. Nằm trên biên giới giữa Brazil và Argentina, thác Iguaza không phải số một về chiều rộng, chiều cao về thể tích nhưng nó bao gồm 275 thác dọc theo sông Iguazu. Phần lớn thác có chiều cao khoảng 64 mét. Ấn tượng nhất trong số đó là Throat Devil's hình chữ U, cao 82 mét, rộng 150 mét và dài 700 mét.
Trong chiến tranh Vệ quốc (1941-1945), các nữ quân nhân Liên Xô đã đóng góp công lao không nhỏ trong việc tiêu diệt chủ nghĩa phát xít.
C. hành trình chinh phục Mặt Trăng
Ngày 9-5-2015, Liên bang Nga long trọng tổ chức lễ kỷ niệm 70 năm Ngày Chiến thắng trong cuộc Chiến tranh giữ nước vĩ đại và kết thúc Chiến tranh thế giới lần thứ II ở châu Âu (8-5-1945) bằng Cuộc duyệt binh chiến thắng hoành tráng trên Quảng trường Đỏ ở thủ đô Matxcơva. Cuộc diễu binh diễn ra trong bối cảnh trên thế giới đang diễn ra làn sóng tuyên truyền xuyên tạc công khai chưa từng thấy và trắng trợn về lịch sử cuộc chiến tranh này cũng như về vai trò của Liên Xô trong cuộc đấu tranh nhằm tiêu diệt chủ nghĩa phát xít, cứu nhận loại thoát khỏi thảm họa diệt chủng.
Cuộc duyệt binh chiến thắng năm 2015 là cuộc duyệt binh có quy mô lớn nhất từ trước tới nay. Chính phủ Nga đã mời lãnh đạo của các tổ chức quốc tế tham dự, trong đó có Tổ chức văn hóa và giáo dục của Liên hợp quốc (UNESCO), Liên hợp quốc, Liên minh châu Âu và Hội đồng châu Âu.
Theo Đại tướng Ôlech Xalukôv, Tổng tư lệnh Lục quân Nga, tham dự Cuộc duyệt binh chiến thắng có 700 quân nhân của 10 nước trong số 16 nước được Nga gửi giấy mời tham gia, trong đó có Đội duyệt binh gồm 110 người của Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc. Theo Đại sứ quán Trung Quốc ở Matxcơva, đây là lần đầu tiên, Trung Quốc tham gia lễ duyệt binh trên Quảng trường Đỏ, thể hiện tính chất và nội dung của quan hệ đối tác và hợp tác chiến lược Nga-Trung Quốc.
Một số nước trước đây đã từng tham dự lễ kỷ niệm Ngày Chiến Thắng trong cuộc Chiến tranh giữ nước vĩ đại và kết thúc Chiến tranh thế giới lần thứ II ở Matxcơva như Pháp, Đức, Anh, Ý, Ucraina, Ba Lan…nhưng năm nay không có mặt do sức ép từ phía Mỹ là quốc gia đi đầu trong chiến dịch xuyên tạc lịch sử Chiến tranh thế giới lần thứ II nói chung và Chiến tranh giữ nước vĩ đại nói riêng, trong bối cảnh Oasinhtơn đang tiến hành bao vây cấm vận Nga liên quan tới cuộc khủng hoảng Ucraina
Nhìn lại Chiến tranh thế giới lần thứ II
Chiến tranh thế giới lần thứ II (1939-45) là cuộc chiến tranh lớn nhất trong toàn bộ lịch sử nhân loại do liên minh phát xít Đức, Ý và quân phiệt Nhật Bản phát động nhằm xâm lược, chiếm đóng lãnh thổ các nước, phân chia lại thị trường tiêu thụ sản phẩm và đầu tư cũng như khai thác tài nguyên thiên nhiên của các nước bị xâm chiến. Cuộc chiến tranh này diễn ra trên hầu hết các châu lục, đại dương, liên quan đến 72 nước với 1,7 tỉ người, trong đó có tới 110 triệu quân tham chiến.
Để tiến hành cuộc chiến tranh này, năm 1936 các nước Đức, Ý, Nhật Bản quyết định thành lập liên minh, trước hết là liên minh Đức-Ý, sau có thêm Nhật Bản, theo Hiệp hiệp ước Beclin được ký kết vào năm 1940. Để phát động chiến tranh, từ năm 1938, phát xít Đức đưa quân đi xâm lược và đánh chiếm các nước Áo (1938), Tiệp Khắc (với sự thỏa hiệp của Anh, Pháp, theo Hiệp định nghị Mu-nich ký năm 1938). Phát xít Ý đưa quân xâm lược Êtiôpia (1936), Anbani (1939), còn quân phiệt Nhật Bản xâm chiếm Trung Quốc (năm 1937).
Ngày 1-9-1939, phát xít Đức tiến công xâm lược Ba Lan, chính thức mở đầu Chiến tranh thế giới lần thứ II. Sau đó, năm 1940, quân Đức đánh chiếm hàng loạt nước châu Âu, gồm Đan Mạch, Na Uy, Hà Lan, Bỉ, Pháp, Hunggari, Rumani, Bungari. Năm 1941, quân Đức sử dụng không quân và hải quân đánh phá nước Anh. Còn phát xít Ý với sự hỗ trợ của quân Đức đã đánh chiếm Nam Tư, Hi Lạp (1941). Trên chiến trường Bắc Phi, liên quân Đức-Ý đánh chiếm Libi và tiến sang Ai Cập.
Sau khi đánh chiếm 16 nước châu Âu, tháng 6-1941, phát xít Đức tập trung cụm lực lượng lớn nhất trên chiến trường châu Âu trong Chiến tranh thế giới lần thứ II tiến công Liên Xô bằng chiến dịch chiến tranh chớp nhoáng mang tên “Bacbarôt”, mở đầu cuộc chiến tranh Xô-Đức (1941-1945), Ban đầu, quân Đức đánh chiếm Lit-va, Latvia, Extônia, phần lớn Bêlarut, Ucraina, bao vây thành phố Lêningrat và tiến về phía Matxcơva. Trong 2 năm 1941-1942 đã diễn ra chiến dịch Matxcơva, làm phá sản chiến lược “chiến tranh chớp nhoáng” của phát xít Đức.
Ở châu Á, từ năm 1940, Nhật đánh chiếm phần lớn Trung Quốc, đưa quân vào Đông Dương, tiến công hạm đội Mỹ ở Thái Bình Dương trong chiến dịch Trân Châu Cảng (1941). Sau đó, quân Nhật đánh tràn xuống Đông Nam Á chiếm Malaixia, Inđônêxia, Philippin, Mianma (1941-1942).
Tháng 1-1942, khối Đồng minh chống phát xít với vai trò nòng cốt của Liên Xô, Mỹ và Anh chính thức thành lập đồng thời với phong trào chống phát xít ở các nước bị chiếm đóng phát triển mạnh. Từ giữa năm 1942, ở châu Âu và Bắc Phi, phát xít Đức và Ý mất dần quyền chủ động tiến công, phải lui về phòng ngự chiến lược. Liên Xô chuyển sang phản công-tiến công trong các chiến dịch Xta-lin-grat (1942-1943), chiến dịch Cuôcxcơ (1943). Trong khi đó Mỹ và Anh đẩy lùi liên quân Đức-Ý ra khỏi khỏi Bắc Phi trong các chiến dịch Bắc Phi (1942), chiến dịch En Alamen, (1942), chiến dịch Tuynidi (1943). Năm 1943, quân Đồng Minh đánh chiếm đảo Xixin của Ý trong chiến dịch Xixin (1943), chiếm khu vực miền nam nước Ý trong chiến dịch Nam Ý, dẫn tới sự sụp đổ của chế độ cầm quyền của phát xít Ý và buộc chúng phải đầu hàng (9-1943).
Từ giữa năm 1944, bằng nhiều chiến dịch tiến công quy mô lớn, Liên Xô giải phóng toàn bộ lãnh thổ. Thực hiện quyết định của Hội nghị Têhêran (1943), quân đồng minh mở mặt trận thứ hai ở châu Âu, trong đó quân Mỹ, Anh, Canađa và Pháp đổ bộ vào tây bắc và nam nước Pháp trong chiến dịch Nocmanđi (1944), chiến dịch Nam Pháp (1944) và phối hợp với các lực lượng chống phát xít ở các nước sở tại giải phóng Bỉ, Pháp, Hà Lan, Hi Lạp, đánh chiếm miền Tây nước Đức. Trong khi đó, Hồng quân Liên Xô cùng với lực lượng chống phát xít giải phóng của một số nước Đông Âu, Rumani, Bungari, Nam Tư, Ba Lan, Hunggari, Áo (1944), Tiệp Khắc (1945), tiến vào Miền Đông nước Đức, đánh chiếm Beclin, sào huyệt cuối cùng của Hitle, buộc phát xít Đức phải ký kết hiệp ước đầu hàng không điều kiện vào ngày 8-5-1945.
Ở châu Á, từ năm 1943 đến năm 1945, Mỹ đánh chiếm một số đảo ở Thái Bình Dương, nam Philippin và một số đảo của Nhật Bản. Trong 2 ngày 6 và 9-8-1945, Mỹ ném 2 quả bom nguyên tử xuống 2 thành phố Hirôsima và Nagasaki của Nhật, làm hơn 200.000 người chết và bị thương. Trong khi đó, quân Anh tái chiếm Mianma và Inđônêxia (1944). Phối hợp với quân đồng minh, các lực lượng cách mạng yêu nước ở Trung Quốc, Việt Nam và nhiều nước Đông Nam Á đẩy mạnh kháng chiến chống Nhật.
Từ ngày 9-8-1945, Hồng quân Liên Xô cùng quân đội Mông Cổ và Giải phóng quân Trung Quốc, Triều Tiên tiến công đập tan đạo quân Quan Đông tinh nhuệ nhất của quân phiệt Nhật Bản, giải phóng vùng Đông Bắc Trung Quốc, Bắc Triều Tiên, miền nam Xakhalin, quần đảo Curin, góp phần quyết định buộc phát xít Nhật phải ký kết hiệp ước đầu hàng không điều kiện vào ngày 2-9-1945.
Chiến tranh thế giới lần thứ II kết thúc với sự sụp đổ phát xít Đức-Ý và quân phiệt Nhật Bản, là thắng lợi vĩ đại của nhân loại tiến bộ, trong đó Hồng quân Liên Xô đóng vai trò then chốt, dẫn đến những biến đổi căn bản trong cục diện chính trị quốc tế, hình thành hệ thống xã hội chủ nghĩa và trật tự thế giới hai cực. Trong cuộc chiến này, có gần 55 triệu người chết, hơn 20 triệu người bị tàn phế, thiệt hại vật chất tới 316 tỉ USD.
Nhìn lại cuộc Chiến tranh giữ nước vĩ đại
Chiến tranh giữ nước vĩ đại hay còn được gọi là Chiến tranh Xô-Đức (1941-1945) là cuộc chiến tranh do Liên Xô tiến hành để bảo vệ tổ quốc và nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới.
Sau khi đánh chiếm 16 nước châu Âu, tháng 6-1941, vứt bỏ Hiệp ước không tấn công lẫn nhau ký với Liên Xô ngày 23-8-1939, phát xít Đức mở chiến dịch chiến tranh chớp nhoáng mang tên “Bacbarôt” với một lực lượng mạnh nhất trong Chiến tranh thế giới lần thứ II, gồm 190 sư đoàn (5,5 triệu quân), 4.300 xe tăng thiết giáp, 47.000 pháo, gần 5.000 máy bay, 192 tàu chiến, đánh thẳng tới Matxcơva. Lúc đó, Hồng quân Liên Xô ở biên giới phía tây có 2,7 triệu quân, 37.000 pháo, 1.475 xe tăng, 1.540 máy bay, 396 tàu chiến.
Giai đoạn 1 (từ ngày 22-6-1941 đến ngày 18-11-1942), phát xít Đức tập trung lực lượng bất ngờ tiến công theo ba hướng, nhanh chóng chiếm Litva, Latvia và Extônia, phần lớn Bêlôrutxia và Ucraina. Tháng 9-1941, phát xít Đức bắt đầu phong tỏa Lêningrat, tiến công Kiep và chuẩn bị tiến đánh Maxcơva. Trong giai đoạn này, Hồng quân Liên Xô thực hành chiến lược phòng ngự, chặn đứng quân Đức ở cửa ngõ Maxcơva và tới đầu tháng 12-1941 chuyển sang phản công chiến lược.
Bằng nỗ lực phi thường và quyết tâm chiến lược, tháng 4-1942, Hồng quân Liên Xô đẩy lùi quân Đức về phía Tây 100-300 km, kết thúc thắng lợi Chiến dịch Maxcơva. Trong chiến dịch này, Hồng quân Liên Xô đã tiêu diệt 1.800.000 quân, 1.700 xe tăng, 14.000 pháo và súng cối, 1.390 máy bay của phát xít Đức, mở đầu bước ngoặt cơ bản trong Chiến tranh thế giới lần thứ II. Từ tháng 5-1942, Hồng quân Liên Xô mở cuộc tiến công ở Khaccôp và Crưm. Quân Đức điều động 266 sư đoàn mở cuộc tiến công mới theo hướng nam vào vùng Xtalingrat và Capca, nhưng đến giữa tháng 11-1942 bị chặn lại ở Xtalingrat.
Giai đoạn 2 (từ ngày 19-11-1942 tới cuối 1943), Hồng quân Liên Xô chuyển sang thế phản công chiến lược, tạo bước chuyển biến căn bản trên mặt trận Xô-Đức. Sau gần 3 tháng chuyển từ phòng ngự sang phản công-tiến công, đến ngày 2-2-1943, Hồng quân Liên Xô thực hiện chiến dịch hợp vây, tiêu diệt và bắt đầu hàng toàn bộ đạo quân tinh nhuệ nhất của Đức gồm 33 vạn quân trong trạn Xtalingrat. Sau đó, Hồng quân Liên Xô tiếp tục phát triển thắng lợi trong chiến dịch phản công chiến lược giải phóng vùng Cuôcxcơ và Khaccôp. Từ ngày 4-7 đến 23-8-1943, Hồng quân Liên Xô và phát xít Đức đã tiến hành cuộc đấu xe tăng lớn nhất trong Chiến tranh thế giới lần thứ II trong chiến dịch Cuôcxcơ, đập tan 30 sư đoàn Đức với 500.000 quân, trong đó có 7 sư đoàn xe tăng. Tháng 1-1943, Hồng quân Liên Xô phá vỡ vòng vây ở Lêningrat và tới tháng 4 năm đó, giải phóng phần lớn vùng Capca và giành được thế chủ động chiến lược. Đến 11-1943, Liên Xô đã giải phóng được khoảng một nửa vùng đất bị phát xít Đức chiếm đóng.
Giai đoạn 3 (từ ngày 1-1944 đến ngày 9-5-1945), Hồng quân Liên Xô mở đợt tiến công chiến lược toàn diện, bằng nhiều chiến dịch quy mô lớn và từng bước giải phóng toàn bộ lãnh thổ Liên bang Xô-Viết. Đầu 1945, Hồng quân Liên Xô giải phóng nhiều nước Đông Âu và tiến vào nước Đức: ngày 30-4-1945, Hồng quân Liên Xô cắm cờ chiến thắng trên nóc nhà Quốc hội Đức; ngày 2-5-1945, chiếm toàn bộ Beclin, buộc phát xít Đức phải ký Hiệp ước đầu hàng vô điều kiện vào ngày 8-5-1945.
Trên mặt trận Xô-Đức, Hồng quân Liên Xô đã tiêu diệt 607 sư đoàn Đức (chiếm 80% toàn bộ tổn thất của Đức và 77,5% toàn bộ tổn thất của liên quân phát xít), góp phần quyết định cứu loài người khỏi thảm họa phát xít, tạo điều kiện thuận lợi cho cuộc đấu tranh cách mạng và phong trào giải phóng dân tộc của nhân dân nhiều nước trên thế giới.
Trên mặt trận Xô-Nhật, Hồng quân Liên Xô đã đánh tan đội quân hùng mạnh nhất của quân phiệt Nhật Bản ở Viễn Đông, bảo vệ tổ quốc và thực hiện nghĩa vụ đồng minh chống phát xít theo thỏa thuận với các nước Đồng Minh tại Hội nghị Crưm (2-1945). Theo thỏa thuận này, ngày 8-8-1945, Hồng quân Liên Xô tuyên chiến với phát xít Nhật.
Trong thời gian từ ngày 9-8 tới ngày 2-9-1945, được sự phối hợp của quân đội Mông Cổ và các lực lượng giải phóng quân Trung Quốc và Triều Tiên, Hồng quân Liên Xô đã mở ba chiến dịch lớn: chiến dịch Mãn Châu (từ ngày 9-8 tới ngày 2-9-1945) tiêu diệt đạo quân Quan Đông, đội quân tinh nhuệ nhất của Nhật, giải phóng toàn bộ vùng đông bắc Trung Quốc và Bắc Triều Tiên; chiến dịch nam Xakhalin (từ ngày 11-8 đến ngày 25-8-1945) giải phóng miền Nam Xakhalin bị Nhật chiếm đóng trong chiến tranh Nga-Nhật (1905) và chiến dịch Curin (từ ngày 18-8 đến ngày 1-9-1945) giải phóng quần đảo Curin.
Thắng lợi của Hồng quân Liên Xô trên mặt trận Xô-Nhật góp phần quyết định đánh bại phát xít Nhật, buộc Nhật Bản phải ký Hiệp ước đầu hàng vô điều kiện, kết thúc Chiến tranh thế giới lần thứ II ở Châu Á-Thái Bình Dương vào ngày 2-9-1945.
Nước Nga sau 70 năm kết thúc Chiến tranh thế giới lần thứ II và Chiến tranh giữ nước vĩ đại
70 năm kể từ khi kết thúc Chiến tranh thế giới lần thứ II và Chiến tranh giữ nước vĩ đại, nước Nga lại phải đối mặt với nguy cơ một cuộc chiến tranh xâm lược mới. Nguyên nhân của mọi nguyên nhân ở đây là, nếu trước Chiến tranh thế giới lần thứ II, Liên Xô là mục tiêu tấn công đầu tiên của liên minh phát xít Đức và quân phiệt Nhật Bản cùng với các tập đoàn tài phiệt ở phương Tây, thì ngày nay nước Nga cũng là mục tiêu số 1 mà các tập đoàn tài phiệt ở phương Tây đang tập trung chống phá quyết liệt. Nếu Liên Xô trước đây được phương Tây nhìn nhận là “nguy cơ lan tỏa của chủ nghĩa cộng sản”, thì nước Nga ngày nay là vật cản lớn nhất đối với tham vọng của các tập đoàn tài phiệt ở Mỹ đang dồn nén những nỗ lực cuối cùng để tiếp tục duy trì trật tự thế giới đơn cực mà họ đã dựng lên sau Chiến tranh lạnh.
Cái gọi là “nguy cơ từ nước Nga” được Mỹ và các nước phương Tây nhìn nhận trong bài phát biểu của Tổng thống Nga V.Putin tại Hội nghị an ninh quốc tế ở Munich (CHLB Đức) năm 2007. Trong đó, Putin chính thức tuyên bố nước Nga không chấp nhận trật tự thế giới đơn cực và chủ trương sẽ cùng với cộng đồng quốc tế xây dựng trật tự thế giới mới đa cực, tất cả các quốc gia dù lớn hay nhỏ, mạnh hay yếu, giàu hay nghèo, đều được tôn trọng và bình đẳng như nhau. Tuyên bố này của Tổng thống V.Putin được coi là thông điệp mở ra kỷ nguyên mới trong trật tự thế giới, thường được giới nghiên cứu gọi là “kỷ nguyên Putin”. Do đó, nước Nga đang là mục tiêu số 1 cần phải loại bỏ trong chiến lược của Mỹ giành quyền bá chủ thế giới.
Đỉnh điểm của những nỗ lực chống phá Nga từ Mỹ và các nước phương Tây là cuộc khủng hoảng Ucraina. Ngày 5-12-2014, Hạ viện Mỹ đã thông qua Nghị quyết số 758, trong đó cáo buộc Nga “là quốc gia xâm lược Ucraina”. Còn Tổng thống Mỹ Ôbama, từ diễn đàn quốc tế lớn nhất là kỳ họp thường niên của Đại hội đồng Liên hợp quốc năm 2014, đã tuyên bố về cái gọi là “nguy cơ xâm lược từ Nga” và coi đó là một trong ba hiểm họa đối với thế giới, cùng với đại dịch Ê-bô-la và Nhà nước Hồi giáo. Tiếp theo Hạ viện Mỹ, ngày 27-1-2015, Quốc hội U-crai-na cũng thông qua tuyên bố coi Nga là “quốc gia xâm lược U-crai-na”.
Hiện nay, đang diễn ra chiến dịch xuyên tạc lịch sử về Chiến tranh thế giới lần thứ II nhằm biến Liên Xô từ vai trò quốc gia đi đầu trong cuộc đấu tranh chống phát xít thành “kẻ xâm lược” các nước Châu Âu; hạ thấp, thậm chí bác bỏ công lao của Hồng quân Liên Xô trong Chiến tranh thế giới lần thứ II; tôn vinh những kẻ đi theo phát xít Đức là “những người anh hùng”, “những chiến sỹ giải phóng”. Theo hướng này, cơ quan lập pháp cao nhất là Quốc hội U-crai-na đã thông qua một đạo luật nhằm tôn vinh các thành viên của “Tổ chức dân tộc Ucraina”, gọi tắt là OUN (The Organization of Ukrainian Nationalists) và “Lực lượng khởi nghĩa U-crai-na” UPA (Ukrayins'ka Povstans'ka Armiya) là những lực lượng đã từng chiến đấu trong hàng ngũ phát xít Đức chống lại Hồng quân Liên Xô, là “những chiến sỹ đấu tranh vì nền độc lập của đất nước”.
Trong chuyến thăm chính thức CHLB Đức ngày 8-1-2015, Thủ tướng Ukraina, ông Acxeni Yaxenuc, đã đưa ra tuyên bố gây sốc dư luận các nước Châu Âu và Nga: “Cả Đức và Ukraina đều bị Liên Xô xâm lược trong Chiến tranh thế giới II”. Còn Tổng thống Ukraina, ông Petrô Pôrôxencô, tại một buổi lễ tưởng niệm các nạn nhân trong Chiến tranh thế giới II ở thủ đô Kiev ngày 9-4-2015 đưa ra tuyên bố: “Hitle và Xtalin đều có tội như nhau là gây ra Chiến tranh thế giới II”. Bình luận về tuyên bố của ông Acxeni Yaxenuc, Chủ tịch phong trào nhân quyền quốc tế "Thế giới không có chủ nghĩa phát xít", ông Bôrit Xpigen, nói: “Thủ tướng Ucraina nên từ chức và chúng ta không thể để một chính khách ở vị thế nguyên thủ một quốc gia lại tự do cho phép mình tuyên bố kiểu như vậy. Vì thế, trước lễ kỷ niệm 70 năm chấm dứt Chiến tranh thế giới lần thứ II, Tổng thống Hy Lạp tuyên bố rằng, nhà nước Ukraine hiện nay là nhà nước phát xít. Còn Tổng thống Ba Lan Bronhislav Komorovskij-quốc gia từng ủng hộ Ukraine gia nhập Liên minh Châu Âu, cũng đã phải công nhận, ở Ukraine hiện nay đang lặp lại phiên bản chủ nghĩa phát xít Đức những năm 1940.
Nhận định về tình hình này, Xtiven Côen, chuyên gia nghiên cứu lịch sử Liên Xô và Nga, Giáo sư Đại học Niu-ooc (Mỹ), nhận định: “Mỹ đang đẩy Nga vào một cuộc Chiến tranh lạnh mới có thể phát triển thành cuộc chiến tranh quy mô lớn giữa hai cường quốc. Mỹ và Nga hiện đang ở trạng thái xung đột với mức độ nguy hiểm hơn cả cuộc khủng hoảng Ca-ri-bê tháng 10-1962”. Trong một bài viết đăng trên của báo báo “Global Research”, Tổng biên tập Misen Chôxuđôpxki (Michel Chossudovsky) viết: “Tình hình hiện nay không chỉ là một cuộc Chiến tranh lạnh mới mà còn nguy hiểm hơn nhiều, trong đó Mỹ đang hướng tới mục tiêu phát động một cuộc chiến tranh nóng”.
70 năm kể từ khi kết thúc Chiến tranh thế giới lần thứ II, nước Nga dưới sự lãnh đạo của Tổng thống V.Pu-tin đang nỗ lực ngăn chặn nguy cơ bùng nổ Chiến tranh thế giới lần thứ III. Những nỗ lực của nước Nga chắc chắn sẽ góp phần thay đổi căn bản cục diện chính trị quốc tế trong thế kỷ 21./.