Chính Trị Philippines Hiện Nay

Chính Trị Philippines Hiện Nay

��ࡱ� > �� 7 9 ���� 0 1 2 3 4 5 6 �������������������������������������������������������������������������������������������������������������������������������������������������������������������������������������������������������������������������������������������������������������������������������������������������������������������������������������������������������������������������������������������������������������������������� Y� �� |{ bjbj[�[� O� 9� \9� \�� � + �� �� �� � �+ �+ P9 p �9 P : : : ���� $: $: $: 8 \: � <

��ࡱ� > �� 7 9 ���� 0 1 2 3 4 5 6 �������������������������������������������������������������������������������������������������������������������������������������������������������������������������������������������������������������������������������������������������������������������������������������������������������������������������������������������������������������������������������������������������������������������������� Y� �� |{ bjbj[�[� O� 9� \9� \�� � + �� �� �� � �+ �+ P9 p �9 P : : : ���� $: $: $: 8 \: � <

Có các loại chính sách cơ bản nào?

Về cơ bản, có 04 loại chính sách như sau:

Một kế hoạch hoặc hành động của chính phủ hoặc các cơ quan thể chế với mục đích cải thiện hoặc cải cách xã hội được gọi chung là chính sách xã hội.

4 đặc điểm cơ bản của chính sách xã hội:

Một số vai trò của chính sách xã hội:

- Chính sách xã hội tập trung vào con người với mục đích khai thác tiềm năng và nguồn lực để đảm bảo sự ổn định và phát triển của xã hội. Sự ảnh hưởng của chính sách xã hội đến sự phát triển của xã hội là rất lớn.

- Chính sách xã hội đóng vai trò phân tích các nhiệm vụ của chính phủ quốc gia, gia đình, xã hội, thị trường và các tổ chức quốc tế thông qua việc cung cấp các dịch vụ, hỗ trợ trong suốt cuộc đời con người.

Một số các dịch vụ như: Hỗ trợ trẻ em và gia đình, đi học và giáo dục, cải tạo nhà ở và các khu vực lân cận, giảm nghèo, hỗ trợ thất nghiệp, chăm sóc sức khỏe….

Mục đích của chính sách xã hội là để xác định và giảm thiểu bất bình đẳng trong việc tiếp cận các dịch vụ và hỗ trợ giữa các nhóm xã hội được xác định theo tình trạng kinh tế - xã hội, chủng tộc, dân tộc,....

- Chính sách xã hội góp phần đẩy lùi những phân hóa, mâu thuẫn, khác biệt xã hội. Đồng thời, phát huy khả năng của toàn xã hội vào những mục tiêu chung thông qua việc điều tiết các mối quan hệ xã hội trên mọi khía cạnh và lĩnh vực khác nhau.

- Thể hiện sự công bằng xã hội, đây là vai trò trọng yếu của chính sách này. Điều đó tạo nên một làn sóng tích cực, đẩy mạnh quá trình phát triển bền vững của xã hội.

Chính sách pháp luật là loại chính sách có vai trò hỗ trợ trong việc triển khai các chính sách khác được đưa vào đời sống thông qua việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật và các phương tiện pháp lý khác. Tuy nhiên, tính độc lập được thể hiện rất rõ trong chính sách pháp luật.

Vai trò của chính sách pháp luật:

Không chỉ ở Việt Nam mà còn ở hầu hết quốc gia trên thế giới, chính sách pháp luật đóng vai trò vô cùng quan trọng và được xem là một trong những định hướng nghiên cứu của khoa học pháp lý và khoa học chính sách công của thế kỷ XXI.

Thực tế đã cho thấy, chính sách pháp luật là nền tảng và công cụ quan trọng để giải quyết các vấn đề lý luận và thực tiễn của đời sống xã hội. Đồng thời, chính sách pháp luật còn xuyên suốt, là nền tảng vững chắc cho các loại chính sách khác.

Chính sách kinh tế là tập hợp các biện pháp và hành động do Chính phủ thực hiện để tác động đến hoạt động kinh tế của quốc gia, theo một kế hoạch và thời gian nhất định được xây dựng cụ thể.

Để đạt được các mục tiêu về kinh tế của quốc gia là mục đích chính mà chính sách kinh tế hướng đến.

Theo khoản 1 Điều 51 Hiến pháp năm 2013 quy định:

Nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế; kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo

Chính sách kinh tế là một trong những chính sách cốt lõi, nền tảng được Nhà nước ta định hướng và xây dựng cho toàn bộ các chính sách của các lĩnh vực thuộc nền kinh tế khác.

- Chính sách kinh tế nhằm đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô.

- Chính sách kinh tế thương mại.

- Chính sách kinh tế đẩy mạnh quá trình tăng trưởng của nền kinh tế.

- Chính sách liên quan mật thiết đến phát triển kinh tế.

- Chính sách pháp lý với mục đích thiết lập hệ thống pháp luật, điều chỉnh các quan hệ xã hội trong hoạt động kinh doanh, sản xuất và các hoạt động khác trong nền kinh tế.

Một số chức năng cơ bản của chính sách kinh tế:

- Chức năng phân bổ: Giải quyết các vấn đề về phân bổ ngân sách.

- Chức năng ổn định: Kiểm soát lãi suất và lạm phát.

- Chức năng phân phối: Xây dựng chính sách thuế đáp ứng các tầng lớp và lĩnh vực khác nhau.

Chính sách tiền tệ là chính sách sử dụng các công cụ tín dụng và hối đoái để điều tiết việc cung ứng tiền cho nền kinh tế, với mục tiêu là ổn định tiền tệ, giảm lạm phát, tỷ lệ thất nghiệp và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế….

- Chính sách tiền tệ mở rộng (tiền tệ nới lỏng): Mức cung tiền tăng nhiều hơn so với bình thường thông qua ngân hàng nhà nước. Trong trường hợp, nền kinh tế suy thoái, tỷ lệ thất nghiệp tăng cao chính sách tiền tệ thường được sử dụng.

- Chính sách tiền tệ thu hẹp (tiền tệ thắt chặt): Là việc giảm mức cung tiền của ngân hàng nhà nước. Trong điều kiện nền kinh tế đang phát triển quá nhanh, lạm phát tăng cao thường áp dụng chính sách này.

Chính sách thông tin là gì?

Chính sách thông tin là tập hợp các quan điểm, tư tưởng, các giải pháp, công cụ mà tổ chức, nhà nước sử dụng để tác động lên chủ thể thông tin khác. Từ đó, giải quyết vấn đề chính sách, đồng thời những mục tiêu nhất định theo định hướng mục tiêu tổng thể của tổ chức, nhà nước được thực hiện.

Phân loại chính sách thông tin:

- Dựa vào lĩnh vực hoạt động: báo chí, bưu chính viễn thông, sở hữu trí tuệ…

- Dựa vào loại hình thông tin: Thông tin bằng chữ viết, hình ảnh, trên mạng Internet…

- Dựa vào cấp độ ban hành chính sách:

Chính sách thông tin quốc gia: Chính sách kinh tế, đối ngoại, quốc phòng…

Chính sách thông tin cơ quan: Chính sách phát triển, nhân lực, kinh doanh….

Một số vai trò của chính sách thông tin:

- Đảo bảo quyền thông tin của người dân

- Đẩy mạnh quá trình sáng tạo, quản lý, phát triển thông tin

- Định hướng, điều tiết, tạo tiền đề phát triển kinh tế, xã hội

- Là công cụ quan trọng trong quản lý, điều hành của các cá nhân, tổ chức,....

Tổng kết lại. chính sách là gì, một số khái niệm khác liên quan đến chính sách đã được chúng tôi tổng hợp và trình bày chi tiết. Nếu còn thắc mắc, độc giả vui lòng liên hệ 19006192 để được giải đáp.

TS NGUYỄN DUY QUỲNHTrường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn,Đại học Quốc gia Hà Nội

Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế đang diễn ra sâu rộng hiện nay, việc kế thừa các giá trị văn hóa chính trị tốt đẹp của dân tộc, vận dụng sáng tạo trong tình hình mới là yêu cầu cấp thiết_Ảnh: hanoimoi.vn

Văn hóa chính trị là kết quả của quá trình tìm kiếm, đúc kết tri thức, kinh nghiệm chính trị và sự vận dụng trong điều kiện cụ thể để nâng cao chất lượng, hiệu quả trong hoạt động chính trị, qua đó cũng để kiến tạo các giá trị chính trị.

“Văn hóa chính trị là một phương diện của văn hóa trong xã hội có giai cấp nói lên tri thức năng lực sáng tạo trong hoạt động chính trị dựa trên nhận thức sâu sắc các quan hệ chính trị hiện thực cùng những thiết chế chính trị được lập ra để thực hiện lợi ích chính trị cơ bản của giai cấp hay của nhân dân phù hợp với sự phát triển lịch sử”(1). Văn hóa chính trị chịu ảnh hưởng rất lớn của văn hóa dân tộc. Những nhà chính trị tiêu biểu và những nền chính trị thành công trong lịch sử ở mỗi dân tộc đều mang đậm nét đặc trưng dân tộc. Đặc biệt là tư tưởng chính trị, mưu lược và phong cách chính trị.

Sự hình thành văn hóa chính trị có động cơ thường trực là mục tiêu chính trị và nhận thức về các động lực xã hội với tư cách là những sức mạnh không thể thiếu, nhằm đạt được mục đích chính trị mà chủ thể hướng tới. Trong đó, sức mạnh dễ nhận ra nhất là sức mạnh của quần chúng nhân dân. Bất kỳ một lực lượng chính trị nào cũng nhanh chóng nhận ra chân lý này. Do đó, giành lấy quần chúng thường là mục tiêu trung gian, quan trọng nhất trên con đường giành lấy mục tiêu cuối cùng đó là quyền lực nhà nước. Vì vậy, nhiều nhà nghiên cứu thường nhấn mạnh rằng, văn hóa chính trị có nội dung cơ bản là vấn đề niềm tin của quần chúng. Muốn giành được quần chúng thì phải có được tình cảm và niềm tin của quần chúng, để họ có những ứng xử phù hợp với lý tưởng chính trị. Có thể thấy, niềm tin là một thuật ngữ khá mơ hồ, nhưng thực tiễn chính trị lại thường xuyên xác nhận rằng xây dựng niềm tin, cũng cố niềm tin và cuối cùng là làm cho niềm tin ấy được hiện thực hóa là đặc điểm chung của những nền chính trị thành công trong lịch sử nhân loại.

Việc nghiên cứu, khái quát những giá trị văn hóa chính trị trong truyền thống dân tộc và văn hóa và vận dụng vào xây dựng nhà nước trong sạch, vững mạnh là những nghiên cứu quan trọng và cần thiết.

2. Một số giá trị căn bản của văn hóa chính trị Việt Nam

Một là, tư tưởng yêu nước và trách nhiệm thiêng liêng đối với quốc gia, dân tộc

Rất hiếm có một dân tộc nào như Việt Nam, vấn đề độc lập dân tộc là một vấn đề thường trực. Nguy cơ thường xuyên đe dọa đối với nền độc lập dân tộc của Việt Nam. Trong ký ức dân tộc là cảnh nước mất nhà tan, gia đình ly tán, kẻ thù tàn bạo, dã man và người dân Việt Nam bị áp bức và giết chóc. Do vậy, trong tâm khảm của mỗi người dân Việt Nam, yêu nước gắn liền với trách nhiệm thiêng liêng của mỗi cá nhân đối với quốc gia, dân tộc. Người dân Việt Nam làm bất cứ việc gì, kể cả hy sinh cả tính mạng để bảo vệ đất nước, giữ vững nền độc lập dân tộc. Mọi người chấp nhận cuộc sống khó khăn, gian khổ với mong muốn đóng góp công sức của mình để bảo vệ Tổ quốc trước sự xâm lăng từ bên ngoài. Trong các cuộc chiến quyền lực thì hầu hết người dân Việt Nam đều ủng hộ cho chính nghĩa, đi theo những lãnh tụ, những vị minh quân có tư tưởng vì nước, vì dân, mong muốn đem lại cơm no, áo ấm, hạnh phúc cho nhân dân.

Vốn là một bộ phận của văn hóa dân tộc, văn hóa chính trị thấm nhuần giá trị văn hóa tâm linh truyền thống là tâm linh hóa các anh hùng cứu nước cứu dân, tục thờ nhân thần. Điều này trở thành một giá trị đạo đức chính trị quan trọng nhất ở tất cả những ai phải “đứng mũi chịu sào” trước vận mệnh dân tộc. Những bậc vua chúa, các chính khách, các lãnh tụ chính trị. Trong số các vị này, dù cũng có những công lao lớn đối với cộng đồng, nhưng chỉ cần có một động thái dù nhỏ đến đâu, đi ngược lại với lợi ích dân tộc, với độc lập quốc gia là đã bị lên án.

Yêu nước gắn với trách nhiệm và quyết tâm giữ vững độc lập dân tộc bằng mọi giá của người Việt Nam đã trở thành một tư tưởng chính trị, là tấm gương danh giá, được thế giới tôn vinh kể cả những quốc gia đã từng đối đầu với Việt Nam. Đó là tài sản quý giá trong tư tưởng yêu nước Việt Nam.

Hai là, tư tưởng chính trị Việt Nam hàm chứa những giá trị nhân văn phổ quát

Những giá trị nhân văn phổ quát mang tầm nhân loại đã được thể hiện từ lâu trong văn hóa chính trị Việt Nam.

Trước hết là tư tưởng về nhân mạng, về quyền sống của con người. Dù phải liên tục thực hiện các cuộc kháng chiến để bảo vệ nền độc lập dân tộc, Việt Nam luôn đề cao hòa hiếu, chủ động làm lành với kẻ thù sau chiến tranh. Hàng trăm sứ giả, phái đoàn ngoại giao của Việt Nam sang phương Bắc để cầu hòa trong suốt hàng nghìn năm thời kỳ phong kiến. Với thực dân Pháp, sau khi giành được độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chủ động sang thăm Pháp để đề xuất hiệp định với chính phủ Pháp. Với đế quốc Mỹ lại càng như vậy. Tư tưởng chính trị Việt Nam thấm nhuần tinh thần hòa hiếu, trong khi chưa hề biết sợ trước bất kỳ kẻ thù nào.

Chính sách đối với kẻ chiến bại và tù binh chiến tranh cũng là một mẫu mực về tinh thần nhân văn. Sau mỗi thất bại của giặc phương Bắc, từ thời Lý, Trần, Hậu Lê đến vua Quang Trung, các vị đều ra các nghiêm lệnh cấm giết tù binh, không bao giờ truy sát thậm chí còn “trải thảm đỏ”, cấp lương, thuyền, ngựa cho chúng về nước.

Năm 1979, vừa ban bố lệnh tổng động viên, nhưng khi Trung Quốc tuyên bố rút quân, chúng ta đã chủ động ngừng bắn. Chính sách với tù binh thể hiện rõ tinh thần nhân đạo, ít nhất là mức độ các binh sĩ của ta đang được hưởng. Với tù binh Pháp, Hồ Chí Minh đã chỉ thị cho Bộ Tài chính cấp cho mỗi binh lính và thường dân bị bắt mỗi tháng 200 đồng, trong khi mức ǎn của bộ đội ta chỉ có 150 đồng/tháng, với lý do “ta có thể chịu kham khổ được nhưng đối với họ cần phải rộng rãi hơn”(2). Với tù binh Mỹ thì còn vượt mức đó nhiều lần. Bởi vậy, trong hàng ngũ chống giặc ở ta thường có rất nhiều cựu quân nhân của chính quân đội đối phương tham gia giúp sức để chúng ta có được chiến thắng vẻ vang.

Những giá trị nhân văn đó đã tác động mạnh mẽ đến những cựu binh đã từng bại trận ở Việt Nam và được tạo điều kiện để trở về nước an toàn. Sau này, chính họ là những cầu nối quan trọng góp phần thúc đẩy quan hệ giữa Việt Nam và các quốc gia, đồng thời là những sứ giả góp phần truyền bá những giá trị nhân văn của dân tộc Việt Nam với bạn bè thế giới.

Ba là, đoàn kết là lẽ sống của dân tộc Việt Nam

Theo một nghĩa chung nhất, đoàn kết là sự liên kết chặt chẽ của số đông người có chung mục đích, lý tưởng, lợi ích, nguyện vọng để tạo nên sự đồng thuận về ý chí và hành động nhằm đạt được hiệu quả cao trong hoạt động thực tiễn.

Đoàn kết là truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam, được hun đúc qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước. Đoàn kết đã trở thành lẽ sống của người Việt. Trên mọi phương diện, người Việt luôn đề cao tinh thần đoàn kết vì hiểu rằng chỉ có đoàn kết mới giúp vượt qua mọi khó khăn, gian khổ. Chỉ có đoàn kết mới không đơn độc và có thêm nguồn sức mạnh để chống lại sự khắc nghiệt của thiên nhiên, cũng như sự xâm lược của kẻ thù. Các triều đại phong kiến Việt Nam đã có công lao lớn, khẳng định một trong những nguyên lý căn bản của thực tiễn chính trị Việt Nam, đó là xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc rộng lớn, nhiều tầng, nhiều mặt: đoàn kết trong nội bộ triều đình, đoàn kết giữa chỉ huy và binh lính trong quân đội, đoàn kết toàn dân.

Với 54 tộc người cùng chung sống trên lãnh thổ, trong lịch sử, không có mâu thuẫn sắc tộc. Ngược lại, có rất nhiều giao thoa văn hóa giữa các tộc người. Quan hệ kinh tế giữa miền ngược và miền xuôi diễn ra trong suốt chiều dài lịch sử.

Các dân tộc ít người ở Việt Nam luôn gắn bó với vận mệnh chung của quốc gia dân tộc. Họ có mặt ở tất cả các cuộc chiến tranh giữ nước và giải phóng dân tộc. Nhiều vị tướng quân người dân tộc thiểu số đã được ghi nhận trong chính sử Việt Nam như: Thân Cảnh Phúc, Tôn Đản, Hà Bổng, Hà Đặc… và rất nhiều tướng tài khác trong thời đại Hồ Chí Minh. Đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã tổng kết, đại đoàn kết dân tộc là một trong những truyền thống quý báu, là sức mạnh to lớn nhất của người Việt Nam và cũng là nguyên nhân cơ bản dẫn đến thắng lợi của cách mạng Việt Nam.

Tinh thần đoàn kết dân tộc qua các thế hệ người Việt Nam đã tạo nên sự đồng thuận trong các tầng lớp nhân dân, từ việc trị thủy, chống giặc ngoại xâm đến xây dựng và phát triển đất nước. Đoàn kết là một giá trị quan trọng của văn hóa chính trị Việt Nam, làm cho văn hóa chính trị Việt Nam có thêm nhựa sống. Chỉ có đoàn kết mới giúp các lực lượng của dân tộc gắn kết thành một khối thống nhất trên cả ý chí lẫn hành động, từ đó tạo thành sức mạnh tổng hợp để chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược và xây dựng đất nước ngày một phát triển.

Bốn là, ý chí tự chủ, tự lực, tự cường luôn thường trực trong mỗi người Việt Nam

Trong lịch sử hình thành và phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc, ý chí tự chủ, tự lực, tự cường giữ vai trò đặc biệt quan trọng, giúp các quốc gia, dân tộc tự bảo vệ mình trước sức mạnh của tự nhiên và sức mạnh của kẻ thù. Lịch sử đã chứng minh không ít các dân tộc, nền văn minh trên thế giới bị thôn tính, đồng hóa hay bị tiêu diệt vì thiếu ý chí tự chủ, tự lực, tự cường.

Ý thức tự lực, tự chủ, tự cường của dân tộc Việt Nam được hình thành rất sớm và là truyền thống đạo lý được hun đúc, hình thành qua hàng nghìn năm lịch sử. Đó là tinh thần tự mình làm, tự mình lo cho mình, tự mình xây dựng nên sức mạnh cho mình, không trông chờ, ỷ lại, lệ thuộc vào bên ngoài, nhằm xây dựng nên bản sắc, cốt cách riêng của dân tộc Việt Nam. Trong suốt thời kỳ Bắc thuộc, trước âm mưu đồng hóa của các thế lực rất mạnh của phương Bắc, các thế hệ người Việt Nam luôn thể hiện ý chí tự lực, tự cường, tiến hành cuộc đấu tranh bền bỉ, lâu dài để bảo vệ lãnh thổ, bảo vệ nhà nước và các giá trị văn hóa của quốc gia dân tộc, tránh nguy cơ bị đồng hóa.

Đến thời kỳ cận, hiện đại, trước sự tàn bạo, thâm độc của chủ nghĩa thực dân, đế quốc, trước những thử thách lớn lao của dân tộc, tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường vẫn được các sĩ phu yêu nước khơi dậy và được đông đảo quần chúng nhân dân hưởng ứng. Kế thừa những giá trị truyền thống dân tộc, Hồ Chí Minh luôn nêu cao khẩu hiệu: “Muốn người ta giúp cho, thì trước hết phải tự giúp lấy mình đã”(3), “đem sức ta mà giải phóng cho ta”(4), “Một dân tộc không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ thì không xứng đáng được độc lập”(5).

Thực tiễn cách mạng Việt Nam cho thấy, nhân dân Việt Nam đã nhận được sự giúp đỡ không nhỏ của bạn bè thế giới. Tuy nhiên, chính sự nỗ lực, cố gắng, tinh thần tự lực, tự chủ, tự cường của dân tộc ta đã tạo nên nguồn sức mạnh nội lực to lớn, là nhân tố quyết định thắng lợi to lớn của cách mạng Việt Nam.

Năm là, truyền thống trọng dụng nhân tài

Truyền thống trọng dụng nhân tài là một giá trị căn bản của văn hóa chính trị Việt Nam. Từ khi giành lại nền độc lập dân tộc sau hơn một nghìn năm Bắc thuộc, các triều đại phong kiến Việt Nam đặc biệt quan tâm đến trọng dụng nhân tài, đánh giá cao vai trò của nhân tài trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước. Với mong muốn xây dựng một nhà nước tự chủ, các triều đại Ngô, Đinh, Tiền Lê đã coi việc tuyển dụng hiền tài ra giúp nước là một trong những quốc sách hàng đầu, điển hình là việc cáctriều Đinh, Tiền Lê đã phát hiện và trọng dụng các vị cao tăng, phong chức Tăng thống và mời làm cố vấn tối cao cho triều đình.

Cùng với sự phát triển và hoàn thiện bộ máy nhà nước, các triều đại nhà Lý ngoài việc trọng dụng những nhà sư giỏi tham gia giúp nước, còn tập trung xây dựng, phát triển giáo dục, trực tiếp đào tạo đội ngũ nhân tài phục vụ đất nước. Nhà Lý được xem là triều đại mở đầu truyền thống phát hiện nhân tài bằng việc tổ chức các kỳ thi định kỳ để tìm kiếm cũng như tạo điều kiện cho nhân tài xuất lộ. Khoa thi Minh kinh bác học và Nho học tam trường lần đầu được tổ chức vào năm 1075 để lựa chọn nhân tài vào Hàn lâm viện, mở đầu cho truyền thống khoa cử ở Việt Nam từ thế kỷ XI đến thế kỷ XIX.

Khác với triều Lý, nhà Trần đề cao vai trò của tầng lớp quý tộc, vương hầu. Nhà Trần đã tự vươn lên trong việc bồi dưỡng học vấn và văn hóa. Bên cạnh hình thức khoa cử, triều đại nhà Trần cũng đặc biệt coi trọng việc phát hiện nhân tài bằng hình thức tiến cử và dư luận nhân dân. Các nhân vật tự tiến cử thường là những nhân tài ẩn cư trong dân gian.

Sang thời nhà Lê,vấn đề nhân tài đã có vị trí trọng yếu trong tư tưởng chính trị. Nho giáo trở thành quốc giáo góp phần làm cho tầng lớp nho sĩ ngày càng đông đảo, là nguồn lực cơ bản để nuôi dưỡng nhân tài. Những kỳ thi trở thành các sự kiện có tầm vóc quốc gia. Dưới triều đại vua Lê Thánh Tông, bên cạnh chế độ khoa cử kế thừa từ các triều đại trước đã rất phát triển và hoàn thiện, chủ trương tiến cử giới thiệu người hiền tài rất được đề cao và đã trở thành chế độ của nhà nước. Chiếu chỉ năm 1463 của vua Lê Thánh Tông viết: “Ta lưu tâm việc trị nước, dốc ý việc cầu tài, thường nghĩ những người tài làm được việc còn bị khuất ở hàng dưới, chìm lấp ở thôn quê, nên tìm hỏi người giỏi, mơ tưởng không quên”(6).

Truyền thống trọng dụng nhân tài ở Việt Nam đã hình thành và phát triển theo suốt chiều dài lịch sử, được kế thừa từ đời này qua đời khác. Truyền thống đó đã sản sinh ra nhiều người con ưu tú, với hiểu biết phong phú và sâu sắc, đồng thời biết vận dụng, tạo ra nhiều thành quả trong hoạt động thực tiễn, đóng góp tích cực cho sự tiến bộ xã hội, được cộng đồng thừa nhận và tôn vinh. Đó là những con người vừa giàu chất nhân đạo, chất trí tuệ, sâu lắng kết hợp với tinh thần dấn thân hành động, biết hy sinh bản thân vì lợi ích chung của cộng đồng, dân tộc. Chính nhờ những cống hiến của người tài mà đất nước ta đã đạt được nhiều thành tựu gắn với mỗi giai đoạn của lịch sử. Chính trị ổn định, kinh tế phát triển, đất nước đã có nhiều khởi sắc. Để đạt được những thành công đó, chắc chắn có đóng góp vô cùng to hơn của những nhân tài trên mọi phương diện của đời sống xã hội.

Sáu là, đặc điểm “tản mạn chính trị”

“Tản mạn” có nghĩa là sự rời rạc, cục bộ, không liên hệ với nhau, không tập trung. “Tản mạn chính trị” được hiểu là quyền lực bị phân tán, không tập trung, có tính cục bộ. Đây là điểm yếu lớn nhất trong đời sống chính trị Việt Nam, đặc biệt ở thời phong kiến. Để chỉ ra những nguyên nhân dẫn đến yếu kém này trong tâm lý chính trị và đời sống chính trị Việt Nam cần có những nỗ lực nghiên cứu lớn. Cái cần là nêu ra, nhận diện các biểu hiện của nó. Nhưng trước hết, cần phải thừa nhận rằng, đặc điểm này chỉ có trong xã hội Việt Nam thời bình. Biểu hiện phổ biến nhất là người dân không coi trọng pháp luật quốc gia, chỉ cần tôn trọng các tập tục truyền thống ở cơ sở làng xã. Hiện tại tình trạng này đã có nhiều cải thiện so với trước đây.

Trước đây, dưới thời phong kiến, hiện tượng này có cơ sở là tính độc lập tương đối của làng xã đối với triều đình trung ương. Đặc điểm này được xem là một giá trị chuyển tải đầy đủ nhất bản sắc văn hóa chính trị Việt Nam, biểu hiện đặc sắc của tinh thần tự chủ, độc lập. Nhờ có tinh thần ấy mà văn hóa chính trị Việt Nam không bị đồng hóa bởi các thế lực phương Bắc và còn tồn tại, cũng như được kế thừa cho đến ngày nay. Tuy nhiên, trong xã hội hiện đại mà chúng ta đang hướng tới, thì đó lại là một điểm yếu, không thể để nó tồn tại, đặc biệt khi Nhà nước pháp quyền XHCN đã đạt trình độ hoàn thiện như tính tất yếu của thực tiễn.

Đến nay, các biểu hiện của trạng thái thiếu tôn trọng pháp luật vẫn còn phổ biến trong đời sống xã hội. Ý thức công dân của người Việt Nam thật sự phát huy cao độ khi vận mệnh dân tộc bị đe dọa. Trong trạng thái hòa bình, ý thức công dân luôn là một sức mạnh to lớn nhưng vẫn chưa được chuyển hóa thành trạng thái hoạt động. Hòa bình là môi trường luôn đa lợi ích. Một khi ý thức tuân thủ pháp luật chưa phải là đòi hỏi cấp thiết, chưa đặt ra một mất một còn, chưa trực tiếp dẫn đến nguy cơ mất độc lập dân tộc, thì khắc phục nó vẫn luôn là một quá trình lâu dài, khó khăn.

3. Kế thừa những giá trị văn hóa chính trị Việt Nam trong xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh hiện nay

Giá trị văn hóa chính trị Việt Nam được các thế hệ người Việt kế thừa và phát triển qua các thời kỳ lịch sử dân tộc. Các giá trị tốt đẹp đó được chắt lọc, có sức sống mãnh liệt, đi cùng thời gian và cho đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Việc vận dụng những giá trị văn hóa chính trị Việt Nam trong xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh trở thành một yêu cầu bức thiết hiện nay. Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã khẳng định: “Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong sạch, vững mạnh, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, vì nhân dân phục vụ và vì sự phát triển của đất nước”(7). Để thực hiện được định hướng nêu trên, việc vận dụng những giá trị văn hóa chính trị Việt Nam cần tập trung vào một số nội dung sau:

Một là, tiếp tục phát huy truyền thống yêu nước của người dân Việt Nam, đặc biệt trong đội ngũ cán bộ, đảng viên. Nhận thức rõ được trách nhiệm của mình đối với quốc gia, dân tộc và đối với nhân dân, đội ngũ cán bộ, đảng viên phải luôn ghi nhớ, yêu nước là ngoài việc đóng góp công sức, trí tuệ của mình cho sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ Đảng, Nhà nước và chế độ XHCN, còn phải nêu cao tinh thần phục vụ nhân dân, như Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Yêu nước thì việc gì có lợi cho nhân dân, dù khó mấy cũng phải ra sức làm cho kỳ được. Điều gì có hại cho nhân dân, dù khó mấy cũng phải ra sức trừ cho kỳ hết”(8).

Cần đặc biệt quan tâm đến giáo dục truyền thống yêu nước đối với thế hệ trẻ, lực lượng tương lai của đất nước, khuyến khích họ không ngừng học tập, rèn luyện, để nâng cao năng lực, trình độ, trở thành những nhân tài của đất nước. Một khi đã thấm nhuần truyền thống yêu nước của ông cha, thế hệ trẻ sẽ sử dụng tài năng của mình để tích cực xây dựng và phát triển đất nước. Ngược lại, một khi bộ phận giới trẻ nào đó không quan tâm đến truyền thống yêu nước, không có lòng yêu nước, rất có thể sẽ dùng tài năng của mình để làm hại cho đất nước, sa vào chủ nghĩa cá nhân, đặt lợi ích của mình trước lợi ích quốc gia, dân tộc.

Hai là, đoàn kết dân tộc là một truyền thống tốt đẹp mà ông cha ta đã kế thừa và phát huy trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước. Truyền thống đó cần tiếp tục phát huy và nâng lên một tầm cao mới. Trước kia, đoàn kết là để chống giặc ngoại xâm, bảo vệ vững chắc độc lập dân tộc thì nay đoàn kết phải gắn liền với trách nhiệm và nghĩa vụ của mình trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Trong đoàn kết cần xác định rõ những lợi ích chung và lợi ích riêng, nói cách khác, phải lấy lợi ích chung làm điểm quy tụ, đồng thời cũng tôn trọng những lợi ích khác biệt chính đáng mà không trái với lợi ích chung. Có như vậy đoàn kết mới chặt chẽ, lâu dài, mới tập hợp được sức mạnh của cả dân tộc để xây dựng và phát triển đất nước.

Ba là, khơi dậy ý chí tự chủ, tự lực, tự cường của dân tộc Việt Nam. Trong mọi hoàn cảnh, ý chí tự chủ, tự lực, tự cường luôn mang lại sức mạnh to lớn. Do vậy cần phải đề cao năng lực tự chủ, tự lực, tự cường cho đại bộ phận nhân dân. Chú trọng sự tự chủ, tự lực, tự cường, không dựa dẫm vào nước ngoài. Tuy nhiên, vẫn phải luôn tranh thủ tối đa sự ủng hộ, giúp đỡ của các quốc gia và nhân dân các nước trên cơ sở bình đẳng, tôn trọng và giúp đỡ lẫn nhau, đôi bên cùng có lợi. Trong đối ngoại, cần kiên định đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa; vừa hợp tác vừa đấu tranh; kiên trì về nguyên tắc, linh hoạt về sách lược, dĩ bất biến ứng vạn biến; bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở luật pháp quốc tế. Thực hiện tốt bốn không trong chính sách quốc phòng: bảo vệ Tổ quốc Việt Nam không thể dựa vào bất kỳ liên minh quân sự nào; không liên kết với nước này để chống nước kia; không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ để chống lại nước khác; không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế.

Bốn là, truyền thống phát hiện và trọng dụng nhân tài là một trong những giá trị đặc sắc trong văn hóa chính trị Việt Nam. Truyền thống đó đã được các triều đại phong kiến Việt Nam xây dựng, vun đắp và kế thừa. Ở bất kỳ một xã hội nào, nhân tài có vị trí và vai trò vô cùng quan trọng. Các chính sách nhân tài đúng đắn, những người đứng đầu đất nước biết thu hút và sử dụng thì nhân tài phát lộ. Ngược lại, nếu những chính sách không phù hợp, những người đứng đầu không biết phát hiện và trọng dụng nhân tài thì nhân tài sẽ thui chột. Hiện nay, Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm đến phát triển nhân tài. Các cơ quan đảng và nhà nước đã cử nhiều cán bộ đi tu nghiệp, học hỏi kinh nghiệm từ nước ngoài, cũng như tạo điều kiện thuận lợi nhất để nhân tài tham gia xây dựng và phát triển đất nước. Việc tiếp tục nghiên cứu, tìm hiểu về truyền thống phát hiện và trọng dụng nhân tài, từ đó vận dụng một cách sáng tạo, phù hợp với giai đoạn hiện nay vẫn là vấn đề quan trọng và cần thiết.

Năm là, đặc điểm tản mạn chính trị đã phát huy được tác dụng trong thời kỳ chống giặc ngoại xâm phương Bắc. Chính sự tản mạn chính trị làm cho tính cát cứ, tính độc lập tương đối ở các cơ sở làng xã ngày càng được nâng cao. Điều này giúp dân tộc ta không bị đồng hóa và bị thôn tính hoàn toàn, “mất nước nhưng không mất làng”, đồng thời có thể giành lại và giữ vững được độc lập dân tộc, cho dù đã nhiều lần độc lập đó xâm phạm. Thực tiễn lịch sử Việt Nam đã chứng minh rõ điều này. Việt Nam không không bao giờ chấp nhận sự thôn tính của các thế lực ngoại bang. Sớm hay muộn, nhanh hay chậm thì cuối cùng chúng ta cũng đánh đuổi được quân xâm lược ra khỏi bờ cõi.

Trong giai đoạn hiện nay, kế thừa giá trị này, cần hướng đến việc phân quyền cho cấp dưới, đầu tư các nguồn lực cho cấp dưới, đặc biệt là cấp cơ sở, gần và sát dân nhất. Ngoài ra, cũng cần xem xét loại bỏ các cấp trung gian không cần thiết mà nhiều khi còn làm chậm và cản trở quá trình phát triển đất nước.

Các đặc trưng văn hóa chính trị Việt Nam mà bài viết đã khái quát cũng chỉ là một phần trong toàn bộ giá trị văn hóa chính trị Việt Nam từ truyền thống đến hiện đại. Các giá trị văn hóa chính trị đúng đắn, tốt đẹp sẽ luôn trường tồn cùng dân tộc. Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế đang diễn ra sâu rộng hiện nay, việc kế thừa các giá trị văn hóa chính trị tốt đẹp của dân tộc, vận dụng sáng tạo trong tình hình mới là yêu cầu cấp thiết. Thực tiễn chứng minh những giá trị truyền thống tốt đẹp đã và đang được duy trì sẽ có sức mạnh to lớn nếu được vận dụng một cách phù hợp, nhằm tạo ra những xung lực mới, góp phần thực hiện thắng lợi mọi mục tiêu, góp phần xây dựng nước Việt Nam mững mạnh, vững bước trên con đường XHCN.

Ngày nhận bài: 19-4-2024; Ngày bình duyệt: 25-4-2024; Ngày duyệt đăng: 10-6-2024.

(1) Phạm Ngọc Quang: Yêu cầu về năng lực trí tuệ của Đảng trong giai đoạn hiện nay, Tạp chí Triết học, số 2-1994, tr.19.

(2) Lê Vǎn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, t.l, Nxb Đà Nẵng, 1995, tr.6-7.

(3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.2, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.320.

(4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.1, Sđd, tr.17.

(5) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.7, Sđd, tr.44.

(6) Phan Huy Chú: Lịch triều hiến chương loại chí, t.1, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1992, tr.582.

(7) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.II, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.332.

(8) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.11, Sđd, tr.487.