Ngày 25/2, cổ phiếu của Công ty Cổ phần Mía đường Bourbon Tây Ninh chính thức giao dịch tại sàn Tp.HCM với 44.824.172 cổ phiếu (mã cổ phiếu là SBT), giá tham chiếu là 30.000 đồng/cổ phần. Đây là nhà máy đường lớn nhất Việt Nam nhưng cũng có những điểm yếu và rủi ro nhất định. Công ty cổ phần Mía đường Bourbon Tây Ninh (SBT) tiền thân là Công ty liên doanh giữa Tập đoàn Group Sucrecries Bourbon (G.B) và Liên hiệp mía đường Tây Ninh. Nhà máy sản xuất đường có dây chuyền thiết bị hiện đại, công nghệ tiên tiến nhất với sản phẩm chính là đường tinh luyện RE theo tiêu chuẩn châu Âu, công suất thiết kế lớn nhất Việt Nam là 8.000 tấn mía cây/ngày, giai đoạn 2 là 16.000 tấn mía cây/ngày. Điểm đặc biệt của dây chuyền này là sử dụng nhiệt lượng từ đốt bã mía để chạy 2 tua bin sản xuất điện với công suất 24MW, hơi nước thứ cấp sau khi qua tua bin sẽ được sử dụng cho sản xuất đường, phần còn thừa sau khi tự cung cấp điện cho toàn nhà máy sẽ được hòa vào lưới điện quốc gia. Giai đoạn 2 sẽ xây dựng trung tâm nhiệt điện độc lập công suất từ 70 đến 100 MW, sử dụng nhiên liệu đồng hành là bã mía và than đá. Hệ thống máy móc trang thiết bị nhà máy của SBT mặc dù đã khấu hao gần 50% giá trị nhưng giá trị sử dụng của hệ thống này còn rất tốt, đây là một lợi thế rất lớn về giá thành sản xuất trong tương lai. Vị trí của nhà máy của SBT đặt ngay trong vùng trung tâm nguyên liệu của tỉnh Tây Ninh, là khu vực có diện tích trồng trọt lớn và thuận lợi cho việc phát triển cây mía. Do vậy, có lợi thế là giảm chi phí vận chuyển nguyên liệu đến nhà máy và giảm được tỷ lệ hao hụt chữ đường của mía do rút ngắn thời gian chuyên chở mía từ nông trường đến nhà máy. Mặt khác cơ cấu tỷ lệ khoản vay trên vốn chủ sở hữu của SBT là rất thấp, chỉ khoảng 1,9%, do vậy không chịu áp lực về trả lãi vay ngân hàng như các doanh nghiệp khác trong ngành. Thêm vào đó nguồn tiền tích lũy từ khấu hao tài sản cố định và từ lợi nhuận hàng năm của SBT là rất lớn, thuận lợi cho việc đầu tư vào những dự án mới để tăng thêm lợi nhuận hàng năm của Công ty cũng như giảm thiểu được rủi ro khi chỉ tập trung vào sản xuất một chủng loại sản phẩm. Công ty SBT cũng có những điểm yếu cơ bản và có thể gặp những rủi ro sau: Công suất nhà máy thiết kế khá lớn so với tình hình nguyên liệu trong những năm gần đây. Do vậy, chưa phát huy hết được công suất sản xuất của nhà máy, làm chi phí giá thành sản phẩm còn tương đối cao. Vốn chủ sở hữu của SBT khá lớn so với quy mô hoạt động hiện tại của Nhà máy, do vậy vẫn chưa phát huy hết được tính hiệu quả của vốn đầu tư của các cổ đông. Tính đến ngày 31/12/2006 vốn chủ sở hữu của công ty là 1.419.258.412.923 đồng bao gồm vốn đầu tư của chủ sở hữu là 1.524.042.639.000 đồng (tương đương 112.189.000 USD) và khoản lỗ lũy kế là 104.784.026.077 đồng. Khi chuyển sang công ty cổ phần, công ty đã xử lý hết lỗ lũy kế giảm trừ vào vốn chủ sở hữu và đăng ký vốn điều lệ mới là 1.419.258.000.000 đồng, tương đương với 104 triệu USD. Hiện tại, thị trường đang ngày càng cạnh tranh quyết liệt với tổng số 37 nhà máy sản xuất đường trên cả nước, các đối thủ cạnh tranh trong mảng thị trường đường tinh luyện R.E với SBT có thể kể đến là Công ty Cổ phần Đường Biên Hoà, Công ty Đường Lam Sơn, Công ty Đường Nagajura, Công ty Đường KCP. Theo số liệu thống kê từ Hiệp hội Mía đường Việt Nam, thị phần của SBT chiếm khoảng 18% của thị trường đường tinh luyện R.E tại Việt Nam và khoảng 6,4% của với tổng sản lượng đường trong cả nước. Nguyên liệu mía chiếm tỷ trọng 60% trên tổng chi phí giá thành của đường thành phẩm, do vậy giá mía nguyên liệu sẽ có ảnh hưởng đáng kể đến tình hình lợi nhuận của công ty. Giá mía thay đổi mang tính chu kỳ, cứ ba năm một lần, giá mía tăng đột biến. Điều này có thể giải thích là do các nhà nông dân đã đốn, không trồng mía khi giá mía xuống thấp vì đã không mang lại hiệu quả kinh tế cho họ và chuyển qua những loại cây trồng khác do vậy đã tạo ra sự khan hiếm về mía nguyên liệu. Bên cạnh đó, đến năm 2010 thuế nhập khẩu đường vào Việt Nam sẽ bị cắt giảm từ 30% hiện nay xuống 5% sẽ tạo ra cuộc cạnh tranh quyết liệt giữa đường nội và ngoại. Đường nhập khẩu lậu qua biên giới có thể sẽ gây khó khăn cho các doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh đường.
Ngày 25/2, cổ phiếu của Công ty Cổ phần Mía đường Bourbon Tây Ninh chính thức giao dịch tại sàn Tp.HCM với 44.824.172 cổ phiếu (mã cổ phiếu là SBT), giá tham chiếu là 30.000 đồng/cổ phần. Đây là nhà máy đường lớn nhất Việt Nam nhưng cũng có những điểm yếu và rủi ro nhất định. Công ty cổ phần Mía đường Bourbon Tây Ninh (SBT) tiền thân là Công ty liên doanh giữa Tập đoàn Group Sucrecries Bourbon (G.B) và Liên hiệp mía đường Tây Ninh. Nhà máy sản xuất đường có dây chuyền thiết bị hiện đại, công nghệ tiên tiến nhất với sản phẩm chính là đường tinh luyện RE theo tiêu chuẩn châu Âu, công suất thiết kế lớn nhất Việt Nam là 8.000 tấn mía cây/ngày, giai đoạn 2 là 16.000 tấn mía cây/ngày. Điểm đặc biệt của dây chuyền này là sử dụng nhiệt lượng từ đốt bã mía để chạy 2 tua bin sản xuất điện với công suất 24MW, hơi nước thứ cấp sau khi qua tua bin sẽ được sử dụng cho sản xuất đường, phần còn thừa sau khi tự cung cấp điện cho toàn nhà máy sẽ được hòa vào lưới điện quốc gia. Giai đoạn 2 sẽ xây dựng trung tâm nhiệt điện độc lập công suất từ 70 đến 100 MW, sử dụng nhiên liệu đồng hành là bã mía và than đá. Hệ thống máy móc trang thiết bị nhà máy của SBT mặc dù đã khấu hao gần 50% giá trị nhưng giá trị sử dụng của hệ thống này còn rất tốt, đây là một lợi thế rất lớn về giá thành sản xuất trong tương lai. Vị trí của nhà máy của SBT đặt ngay trong vùng trung tâm nguyên liệu của tỉnh Tây Ninh, là khu vực có diện tích trồng trọt lớn và thuận lợi cho việc phát triển cây mía. Do vậy, có lợi thế là giảm chi phí vận chuyển nguyên liệu đến nhà máy và giảm được tỷ lệ hao hụt chữ đường của mía do rút ngắn thời gian chuyên chở mía từ nông trường đến nhà máy. Mặt khác cơ cấu tỷ lệ khoản vay trên vốn chủ sở hữu của SBT là rất thấp, chỉ khoảng 1,9%, do vậy không chịu áp lực về trả lãi vay ngân hàng như các doanh nghiệp khác trong ngành. Thêm vào đó nguồn tiền tích lũy từ khấu hao tài sản cố định và từ lợi nhuận hàng năm của SBT là rất lớn, thuận lợi cho việc đầu tư vào những dự án mới để tăng thêm lợi nhuận hàng năm của Công ty cũng như giảm thiểu được rủi ro khi chỉ tập trung vào sản xuất một chủng loại sản phẩm. Công ty SBT cũng có những điểm yếu cơ bản và có thể gặp những rủi ro sau: Công suất nhà máy thiết kế khá lớn so với tình hình nguyên liệu trong những năm gần đây. Do vậy, chưa phát huy hết được công suất sản xuất của nhà máy, làm chi phí giá thành sản phẩm còn tương đối cao. Vốn chủ sở hữu của SBT khá lớn so với quy mô hoạt động hiện tại của Nhà máy, do vậy vẫn chưa phát huy hết được tính hiệu quả của vốn đầu tư của các cổ đông. Tính đến ngày 31/12/2006 vốn chủ sở hữu của công ty là 1.419.258.412.923 đồng bao gồm vốn đầu tư của chủ sở hữu là 1.524.042.639.000 đồng (tương đương 112.189.000 USD) và khoản lỗ lũy kế là 104.784.026.077 đồng. Khi chuyển sang công ty cổ phần, công ty đã xử lý hết lỗ lũy kế giảm trừ vào vốn chủ sở hữu và đăng ký vốn điều lệ mới là 1.419.258.000.000 đồng, tương đương với 104 triệu USD. Hiện tại, thị trường đang ngày càng cạnh tranh quyết liệt với tổng số 37 nhà máy sản xuất đường trên cả nước, các đối thủ cạnh tranh trong mảng thị trường đường tinh luyện R.E với SBT có thể kể đến là Công ty Cổ phần Đường Biên Hoà, Công ty Đường Lam Sơn, Công ty Đường Nagajura, Công ty Đường KCP. Theo số liệu thống kê từ Hiệp hội Mía đường Việt Nam, thị phần của SBT chiếm khoảng 18% của thị trường đường tinh luyện R.E tại Việt Nam và khoảng 6,4% của với tổng sản lượng đường trong cả nước. Nguyên liệu mía chiếm tỷ trọng 60% trên tổng chi phí giá thành của đường thành phẩm, do vậy giá mía nguyên liệu sẽ có ảnh hưởng đáng kể đến tình hình lợi nhuận của công ty. Giá mía thay đổi mang tính chu kỳ, cứ ba năm một lần, giá mía tăng đột biến. Điều này có thể giải thích là do các nhà nông dân đã đốn, không trồng mía khi giá mía xuống thấp vì đã không mang lại hiệu quả kinh tế cho họ và chuyển qua những loại cây trồng khác do vậy đã tạo ra sự khan hiếm về mía nguyên liệu. Bên cạnh đó, đến năm 2010 thuế nhập khẩu đường vào Việt Nam sẽ bị cắt giảm từ 30% hiện nay xuống 5% sẽ tạo ra cuộc cạnh tranh quyết liệt giữa đường nội và ngoại. Đường nhập khẩu lậu qua biên giới có thể sẽ gây khó khăn cho các doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh đường.
Dưới đây là danh sách 10 cảng biển lớn nhất Việt Nam được Mison Trans tổng hợp mới nhất:
Cảng biển này được biết đến là nơi lưu lượng hàng hóa lưu thông lớn nhất phía Bắc Việt Nam. Cầu cảng ở đây với chiều dài 2.567 mét, diện tích kho 52.052 m2 và có thể xếp dỡ khoảng 10 triệu tấn hàng hóa/năm.
Do cảng này có lưu lượng phù sa bồi đắp lớn nên chỉ tiếp nhận được tàu 6.000 – 7.000 DWT. Theo kế hoạch của Bộ GTVT, cảng Hải Phòng sẽ được nâng cấp, hoàn thiện các trang thiết bị và xây dựng 2 bến tại Đình Vũ để tàu 20.000 DWT có thể thuận tiện hơn trong việc lưu thông, đưa năng lực thông quan hàng hóa lên tới 25 – 30 triệu tấn/năm.
Cảng Vũng Tàu là một cụm cảng biển tổng hợp cấp quốc gia, đầu mối quốc tế của Việt Nam. Cảng thuộc địa phận tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu, Đông Nam Bộ Việt Nam.
Cảng Vũng Tàu hiện nay bao gồm 4 khu bến:
Mới đây, Cảng quốc tế Cái Mép vừa được Ngân hàng Thế giới và Hãng tin Tài chính S&P Global Market Intelligence xếp hạng thứ 11 trên tổng số 370 cảng container hoạt động tốt nhất toàn cầu.
Cảng Vân Phong thuộc khu vực Vịnh Vân Phong, tỉnh Khánh Hòa, là dự án cảng trung chuyển quốc tế (International Transshipment Port) lớn nhất Việt Nam. Với lợi thế gần với các tuyến đường quốc tế với khoảng cách vượt Thái Bình Dương ngắn nhất so với Hongkong và Singapore cảng Vân Phong giờ đây là một trong những bến cảng trung chuyển quốc tế quan trọng nước nhà.
Theo dự kiến, cảng trung chuyển quốc tế tại Việt Nam có khả năng tiếp nhận 5 triệu TEU/năm, với 8 bến cho tàu container có sức chở đến 12.000 TEU và 8 bến cho tàu feeder cùng tổng diện tích toàn cảng đạt 405 ha và tổng chiều dài bến lên đến 5.710m.
Triển vọng phát triển trung tâm logistics & cảng nước sâu Quốc tế: Thành lập từ năm 1977, Cảng Quảng Ninh là một trong những cảng biển nước sâu có quy mô của một cảng tổng hợp Quốc gia và là đầu mối khu vực (loại 1) quan trọng trên tuyến hành lang kinh tế trọng điểm Quảng Ninh – Hải Phòng – Hà Nội.
Cảng Quảng Ninh là điểm kết nối quan trọng trong hoạt động vận tải và lưu thông hàng hoá giữa các vùng lân cận.
Năng suất của cảng lên đến 40 container/cẩu/giờ. Thời gian giải phóng tàu 5.000 TEU chỉ mất hơn một ngày.
⇒ Xem thêm: Top 5 cảng biến lớn nhất thế giới
Quy Nhơn là một cảng biển tại thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định. Năm 2014, cảng này bốc dỡ tổng cộng 12.850.300 tấn hàng, cao nhất trong các cảng ở khu vực Trung Bộ.
Cơ sở vật chất với 7 cầu tàu, tổng chiều dài 1.068m, có thể tiếp nhận tàu trọng tải 30.000 DWT với tần suất bình thường, tàu có trọng tải 50.000DWT giảm tải; hệ thống luồng lạch, phao tiêu hoàn chỉnh, dẫn dắt tàu ra vào 24/24h. Hàng trăm thiết bị, phương tiện, công cụ xếp dỡ đã được trang bị đủ khả năng xếp dỡ tất cả các loại hàng rời, hàng container, kể cả hàng siêu trường, siêu trọng.
Cảng Sài Gòn là một hệ thống các cảng biển tại TPHCM đóng vai trò là cửa ngõ của miền Nam (bao gồm Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông Cửu Long) trong các hoạt động xuất nhập khẩu.
Cảng gồm các khu bến cảng tổng hợp và cảng Container gồm Cảng Cát Lái trên sông Đồng Nai; Cảng Hiệp Phước trên sông Soài Rạp.
Năm 2015, Cảng TP.HCM vinh dự được đứng trong Top 25 Cảng Container của thế giới. Trong quá khứ, Cảng Sài Gòn từng là cảng biển lớn và quan trọng nhất của Việt Nam trong vấn đề lưu chuyển hàng hóa quốc tế.
Tổng diện tích mặt bằng là 500.000m2 gồm 5 khu cảng (Hành khách tàu biển, Nhà Rồng Khánh Hội, Tân Thuận, Tân Thuận 2 và Cảng Thép Phú Mỹ) với 3.000m cầu tàu, 30 bến phao và 280.000m2 kho bãi.
Cảng Cửa Lò với chức năng chính là khu bến cảng tổng hợp, đáp ứng nhu cầu xuất, nhập khẩu hàng hóa cho doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Nghệ An và các tỉnh lân cận khu vực Bắc Trung bộ, một phần hàng quá cảnh của nước bạn Lào và Đông Bắc Thái Lan.
Tổng diện tích quy hoạch của cảng Cửa Lò 450 ha. Cảng có 6 bến, trong đó 4 bến đã đi vào khai thác. Chiều dài bến cảng là 3.020 mét, có khả năng tiếp nhận tàu trọng tải 30.000 DWT – 50.000 DWT.
Cảng Dung Quất là cảng biển tổng hợp quốc gia, đầu mối khu vực thuộc tỉnh Quảng Ngãi; được đưa vào khai thác từ cuối năm 2008. Cảng quốc tế Dung Quất được đánh giá là một cảng thương mại hiện đại đã và đang góp phần quan trọng trong việc thu hút đầu tư vào các khu kinh tế Dung Quất và khu Công nghiệp lân cận.
Đây là khu bến tổng hợp, bến Container cho tàu có trọng tải từ 10.000 – 30.000 DWT và bến chuyên dùng cho công nghiệp nặng có thể tiếp nhận tàu từ 20.000 – 70.000 DWT. ̣
Cảng Chân Mây sở hữu 2 cầu bến với tổng chiều dài 760m, độ sâu trước bến từ -9,4m đến -12,5m. Bến số 1 với chiều dài 480m và Bến số 2 với chiều dài 280m đủ khả năng tiếp nhận tàu hàng đến 50.000 DWT, tàu container 2.800 TEUs và tàu khách đến 362m.
Tổng dung tích 225.282 GRT hội đủ điều kiện và tiềm năng để phát triển trở thành cảng đón được các cỡ tàu du lịch mới nhất và lớn nhất thế giới.
Cảng Đà Nẵng nằm trong Vịnh Đà Nẵng với diện tích 12 km2 cùng hệ thống giao thông thuận lợi, cảng Đà Nẵng sở hữu gần 1.200m cầu bến có khả năng tiếp nhận tàu hàng tổng hợp trọng tải đến 70.000 DWT, tàu container đến 4.000 TEU, tàu khách loại lớn đến 150.000 GRT.
Có hệ thống giao thông thuận lợi, đóng vai trò là khâu quan trọng trong chuỗi Dịch vụ Logistics của khu vực miền Trung nước ta.
⇒ Xem thêm: Top 5 hãng tàu lớn nhất thế giới
Mison Trans hy vọng những chia sẻ trên có thể giúp các bạn biết thêm về các cảng biển ở Việt Nam.
MISON TRANS – DỊCH VỤ HẢI QUAN – VẬN CHUYỂN QUỐC TẾ
Head Office: 200 QL13 (Cũ), P.Hiệp Bình Phước, TP. Thủ Đức, TP.HCM
VPĐD: 13 Đường số 7, Cityland Center Hills, Gò Vấp, TP.HCM