Người Cờ Lao

Người Cờ Lao

Người Cờ Lao, các tên gọi khác Gelao, Ke Lao, tên tự gọi: Klau (tiếng Trung: 仡佬族 hay người Ngật Lão, tiếng Anh: Gelao) là một dân tộc cư trú ở vùng nam Trung Quốc và bắc Việt Nam. Họ là một trong số 54 dân tộc Việt Nam [4][5] và 56 dân tộc Trung Quốc được công nhận một cách chính thức.

Người Cờ Lao, các tên gọi khác Gelao, Ke Lao, tên tự gọi: Klau (tiếng Trung: 仡佬族 hay người Ngật Lão, tiếng Anh: Gelao) là một dân tộc cư trú ở vùng nam Trung Quốc và bắc Việt Nam. Họ là một trong số 54 dân tộc Việt Nam [4][5] và 56 dân tộc Trung Quốc được công nhận một cách chính thức.

Dân số và cư trú của dân tộc Cờ Lao

Theo số liệu từ Điều tra dân số và nhà ở các dân tộc thiểu số năm 2019, dân số của dân tộc Cờ Lao ở Việt Nam là khoảng 4.003 người. Trong đó, nam giới chiếm 2.005 người và nữ giới là 1.998 người. Họ chủ yếu sinh sống tại hai huyện Đồng Văn và Hoàng Su Phì thuộc tỉnh Hà Giang, miền Bắc Việt Nam.

Ở Hà Giang, người Cờ Lao chủ yếu sinh sống tại các địa phương như xã Bạch Đích, Phú Lũng thuộc huyện Yên Minh, và các xã Sính Lủng, Phố Là thuộc huyện Đồng Văn, cùng xã Túng Sán thuộc huyện Hoàng Su Phì. Tại xã Túng Sán, Hoàng Su Phì, họ chiếm tỷ lệ đông đảo (trên 40%).

Người Cờ Lao tại Việt Nam thường theo đạo đa thần và tôn giáo truyền thống của họ thường xoay quanh việc thờ cúng tổ tiên. Họ có nền văn hóa độc đáo và phong phú, với nhiều truyền thống văn hóa và tập quán truyền thống đặc biệt, nhưng cũng đang đối mặt với nhiều thách thức và khó khăn trong việc bảo tồn và phát triển văn hóa truyền thống của mình.

Giới thiệu dân tộc Cờ Lao Việt Nam

Dân tộc Cờ Lao là một trong những dân tộc thiểu số ở Việt Nam, với số lượng người hiện nay khoảng hơn 160.000 người. Người Cờ Lao có nguồn gốc từ Trung Quốc và đã di cư sang Việt Nam từ rất lâu đời. Theo các nghiên cứu lịch sử, những nhóm người Cờ Lao đầu tiên đã đến Việt Nam khoảng từ 150 đến 200 năm trước đây. Sau đó, những đợt di cư tiếp theo của họ đã kéo dài suốt nhiều thế kỷ, cho đến khoảng 60 – 80 năm trước đây.

Đặc điểm kinh tế dân tộc Cờ Lao

Nhóm người Cờ Lao xanh và Cờ Lao trắng sống chủ yếu ở hai huyện Đồng Văn và Mèo Vạc, và hoạt động kinh tế chủ yếu của họ là nương định canh và gieo trồng ngô trong các hốc núi đá. Trong khi đó, nhóm người Cờ Lao đỏ sống chủ yếu ở hai huyện Hoàng Su Phì và Yên Minh, vùng đất có nhiều núi đất và thung lũng, và hoạt động kinh tế của họ chủ yếu là làm ruộng nước và nương núi đất, trồng lúa là chính. Ngoài các loại cây lương thực chính như lúa, người Cờ Lao còn trồng nhiều loại đậu, rau xanh và các loại cây trồng khác, đó là hoạt động kinh tế không thể thiếu đối với mọi gia đình.

Chăn nuôi là hoạt động cung cấp sức kéo và phân bón cho sản xuất, thực phẩm cho các hoạt động liên quan đến ma chay, cưới xin và lễ tết. Ngoài chăn nuôi, thủ công gia đình cũng là một nghề phụ quan trọng trong đời sống của người Cờ Lao. Nghề mộc là hoạt động thủ công gia đình phát triển khá lớn trong cộng đồng này. Nghề nấu rượu ngô không phải là nghề truyền thống nổi trội của người Cờ Lao, tuy nhiên, rượu ngô của đồng bào đã trở thành một mặt hàng được nhiều người biết đến.

Hái lượm, săn bắn và đánh bắt thủy sản là những hoạt động bổ trợ cho hoạt động nông nghiệp của đồng bào Cờ Lao, và chúng không còn đóng vai trò chủ yếu như trước đây.

Giáo dục và ngôn ngữ dân tộc Cờ Lao

Đối với giáo dục, theo số liệu của Điều tra 53 dân tộc thiểu số năm 2019, tỷ lệ người từ 15 tuổi trở lên biết đọc, biết viết chữ phổ thông chiếm 58,2%. Tỷ lệ đi học chung của trẻ em ở cấp tiểu học chiếm 103,4%. Tỷ lệ đi học chung của trẻ em ở cấp trung học cơ sở là 83,1%, tỷ lệ đi học chung của trẻ em ở cấp trung học phổ thông là 37,4%. Tỷ lệ trẻ em ngoài trường là 17,6%.

Ngôn ngữ của người Cờ Lao thuộc nhóm ngôn ngữ Ka Đai, cùng nhóm với tiếng La Ha, La Chí, Pu Péo (ngữ hệ Thái – Ka Đai). Trước đây, các nhóm địa phương có phương ngữ khác nhau, nhưng hiện nay đa số người Cờ Lao đỏ, Cờ Lao xanh không còn nói được tiếng mẹ đẻ của mình nữa. Tuỳ theo quá trình tiếp xúc, cộng đồng họ quen sử dụng tiếng Quan họa, tiếng Nùng hay tiếng Pu Péo, Hmong.

Phong tục cưới hỏi và hôn nhân

Tục lệ cưới xin của người Cờ Lao khác nhau tùy theo từng nhóm. Tuy nhiên, trong nhóm Cờ Lao Xanh, chú rể sẽ mặc áo dài màu xanh và cuốn khăn màu đỏ qua người. Trong khi đó, cô dâu sẽ phải dẫm vỡ một cái bát và một cái muôi gỗ đã được sắp đặt trước cổng khi đến cổng nhà chồng. Ngoài ra, trong nhóm Cờ Lao Đỏ, cô dâu chỉ ngủ lại nhà chồng đêm hôm đón dâu.

Tuy nhiên, cách cưới kéo vợ hoặc cướp vợ cũng vẫn thường xảy ra tại một số nhóm người Cờ Lao, tương tự như trong văn hóa của người H’Mông.

Theo phong tục của người Cờ Lao, con trai sẽ được lấy vợ là con gái của cậu. Phụ nữ Cờ Lao khi mang thai thường kiêng cữ cẩn thận để đảm bảo sinh con khỏe mạnh. Tại vùng Đồng Văn, truyền thống đốt nhau của trẻ sơ sinh thành than, sau đó đem bỏ vào hốc đá trên rừng để tránh cho động vật như chó hay lợn giẫm vào. Sau khi sinh ra được 3 ngày 3 đêm (nếu là con trai) hoặc 2 ngày 3 đêm (nếu là con gái), cha mẹ sẽ tổ chức lễ đặt tên cho con. Đứa con đầu lòng thường được bà ngoại đặt tên.

Khi người Cờ Lao qua đời, gia đình sẽ tổ chức lễ chôn cất và lễ chay. Theo truyền thống, khi chôn cất, người thân sẽ xếp đá thành từng vòng quanh mộ, mỗi vòng đá tương ứng với 10 tuổi của người chết. Sau đó, đất sẽ được lấp kín những vòng đá ấy.

Trong nghi lễ tang, người Cờ Lao có phong tục làm hai lần ma: lễ chôn và lễ làm chay. Ngay sau khi lễ chôn hoặc một vài năm sau đó, người Cờ Lao Xanh có thể tiến hành lễ làm chay. Trong lễ cúng, người chết được đưa hồn về Chan San, quê hương cổ xưa. Trong khi đó, người Cờ Lao Ðỏ có phong tục xếp đá quanh mộ. Cứ mỗi 10 tuổi của người đã mất, người thân sẽ xếp thêm một vòng đá quanh mộ. Các vòng đá tuổi được phủ kín đất và trên cùng còn có thêm một vòng đá nữa.

Người Cờ Lao ăn Tết Nguyên đán, Tết Mùng 3 tháng 3, mùng 5 tháng 5, 15 tháng 7 và mùng 9 tháng 9 âm lịch như nhiều dân tộc ở vùng đông bắc Việt Nam.

Nhà cửa dân tộc Cờ Lao Việt Nam

Người Cờ Lao sinh sống trong các căn nhà đất truyền thống, phổ biến là ba gian, hai chái. Các căn nhà thường được xây dựng bằng đất đá, có lợp ngói máng.

BP - Thời kỳ vua Tự Đức trị vì, đất nước ta xuất hiện các nhóm giặc cờ đều có nguồn gốc từ tàn quân của tổ chức Thiên Địa Hội ở Trung Quốc. Nhóm Cờ vàng với đại diện là Hoàng Sùng Anh, Bàn Văn Nhị là thủ lĩnh quân Cờ trắng, Lưu Vĩnh Phúc đứng đầu giặc Cờ đen. Tuy nhiên khi dạt sang Việt Nam, sự phân hóa của các nhóm giặc cờ thành nhiều khuynh hướng đã gây ra sự căng thẳng ở các tỉnh biên giới. Năm 1868, quân Cờ trắng tập trung cướp bóc ở châu Lục Yên, tỉnh Tuyên Quang. Sau trận này, vì xung đột về quyền lợi và phạm vi chiếm đóng, quân Cờ trắng đã bị quân Cờ đen loại bỏ.

Đứng đầu quân Cờ vàng là Hoàng Sùng Anh, hay còn gọi là Hoàng Anh. Năm 1862, quân Cờ vàng hoạt động mạnh ở tỉnh Tuyên Quang. Sau 4 tháng, nhận thấy tình hình cướp bóc ở Tuyên Quang không đem lại kết quả, đến tháng 4-1862, Hoàng Anh vờ đưa ra kế hoạch đầu hàng triều Nguyễn. Nhưng đến tháng 6-1868, quân của Hoàng Sùng Anh lại hợp sức với quân Cờ đen tấn công thành Lào Cai. Hoàng Sùng Anh tạo phản, bị triều đình truy đuổi, năm 1869 buộc phải rút hết quân về tỉnh Cao Bằng. Liên tiếp bị quân và dân địa phương Cao Bằng đánh đuổi, cánh quân Cờ vàng buộc phải trú ẩn ở Bảo Thắng (tỉnh Hưng Hóa). Sau 5 năm, triều đình vẫn chưa thể truy quét tận gốc cánh quân cướp bóc này. Đến tháng 8-1874, không chịu nổi sự truy kích của triều Nguyễn, Hoàng Anh lại xin hàng.  Nhưng đến năm 1875, nhóm quân của Hoàng Anh lại tạo phản. Tháng  6-1875, triều Nguyễn tập trung lực lượng tấn công nhiều phía, kết hợp với nhóm người Thổ ở địa phương, điều động Tuần phủ tỉnh Hưng Hóa là Nguyễn Huy Kỷ cùng quan sở tại Nguyễn Văn Giáo nhằm tiêu diệt hoàn toàn tên đầu sỏ này. Đến tháng 8-1875, Hoàng Sùng Anh bị tiêu diệt.

Quân Cờ đen bắt đầu gây sự ở Lào Cai vào tháng 6-1868. Tuy nhiên, quân Cờ đen không phải một mình làm chủ vùng đất này mà ở Lào Cai cũng có quân Cờ vàng. Quân Cờ đen đã loại bỏ quân Cờ trắng của Hoàng Nhị Vãn và không thôi hy vọng làm bá chủ. Sự tồn tại của quân Cờ vàng đã cản trở mục tiêu chiếm đóng của quân Cờ đen, vì vậy quân Cờ vàng nhanh chóng bị quân Cờ đen gây áp lực phải chuyển địa bàn sang nơi khác. Mâu thuẫn giữa 2 cánh quân diễn ra gay gắt, đặc biệt là sau năm 1870, quân Cờ đen công khai chống đối các nhóm quân khác nhằm tranh giành quyền lợi ở các tỉnh biên giới phía Bắc.

Quân Cờ đen được coi là nhóm quân hoạt động mạnh nhất ở khu vực biên giới phía Bắc. Năm 1868, Lưu Vĩnh Phúc chỉ huy quân Cờ đen tràn sang các tỉnh biên giới phía Bắc nước ta. Để loại bỏ tận gốc cánh quân Cờ vàng, điều cần thiết cho quân Cờ đen là phải có một địa bàn an toàn hoạt động lâu dài. Vì vậy, nhân cơ hội triều Nguyễn dụ hàng, Lưu Vĩnh Phúc đã chấp nhận. Vua Tự Đức ban cho Lưu Vĩnh Phúc làm Đề đốc trấn hạt Thập Lục Châu, cho tự do thu thuế. Trong quá trình hoạt động, quân Cờ đen đã tạo những bước chuẩn bị cần thiết về lực lượng, căn cứ, nhanh chóng loại bỏ quân Cờ vàng. Năm 1875, quân Cờ vàng bị quân Cờ đen tiêu diệt hoàn toàn.

Địa bàn hoạt động của quân Cờ đen ngày càng rộng lớn và sức ảnh hưởng của nhóm quân ngày càng mạnh. Sau đó, quân Cờ đen đánh bại Hà Quân Xương, tên cầm đầu các nhóm cướp bóc ở Bảo Thắng (Hưng Hóa), chiếm lấy thị xã Lào Cai làm căn cứ. Quân Cờ đen làm chủ hoàn toàn vùng biên giới, tự thu thuế của cư dân các vùng xung quanh. Sau này, Lưu Vĩnh Phúc đã phối hợp quân của Hoàng Thủ Trung, Phùng Tử Tài  và Hoa Hoa.

Hoàng Kế Viêm đánh dẹp các nhóm cướp bóc ở các tỉnh biên giới phía Bắc. Đội quân Cờ đen trở thành lực lượng đắc lực chống Pháp và đã giành thắng lợi ở 2 trận Cầu Giấy (1874, 1883). Năm 1877, Lưu Vĩnh Phúc xin triều nhà Nguyễn ở lại Bảo Thắng (tỉnh Hưng Hóa) sinh sống. Sang năm 1878, quân Cờ đen buộc phải rút hết về Trung Quốc theo yêu cầu của Pháp.

Từ thực tế lịch sử của dân tộc ta ở cuối thế kỷ XIX cho thấy rõ ý thức của triều đình nhà Nguyễn, mà đứng đầu là vua Tự Đức trong việc bảo vệ biên cương. Mỗi khi có sự tấn công của các nhóm phản loạn hay cướp bóc, Tự Đức luôn họp bàn với các quan quân để bàn phương pháp đối phó. Ông luôn có những biện pháp cấp bách để có thể đẩy lùi tình trạng bất ổn về an ninh, quốc phòng ở các tỉnh biên giới phía Bắc. Thái độ của Tự Đức cũng như quan quân triều đình và địa phương trước sau đều kiên quyết bảo vệ vững chắc cương giới đất nước.

Mặc dù quân Cờ đen có công gây tổn thương cho lực lượng viễn chinh của Pháp đang xâm chiếm Đông Dương, nhưng chính quân Cờ đen cũng gây nhiều ta thán, tàn hại thường dân. Chính vì thế, Ông Ích Khiêm - một võ tướng đương thời đã tỏ rõ thái độ không đồng tình khi triều đình Huế mượn sức quân Cờ đen chống chọi với Pháp. Ông cũng chê trách các quan của triều đình khi đó là những kẻ bất tài nên khi hữu sự phải nhờ vào người Tàu để đánh giặc. Ông có làm bài thơ trách cứ tinh thần ỷ lại của các quan trong triều: Áo chúa cơm vua hưởng bấy lâu; Đến khi có giặc phải thuê Tàu... Và đây là bài học vô giá cho hậu thế ngày nay rằng: Giữ nước phải bằng chính sức lực của cả dân tộc, chứ không thể mượn người khác đến giữ nhà cho mình.