Chính Sách Thu Hút Fdi Tại Việt Nam

Chính Sách Thu Hút Fdi Tại Việt Nam

Kể từ khi Việt Nam thực hiện công cuộc đổi mới năm 1986, quan hệ hợp tác kinh tế, trong đó bao gồm hợp tác về đầu tư đã phát triển mạnh mẽ. Trong hơn 35 năm qua, đầu tư nước ngoài, đặc biệt là FDI đã trở thành một nguồn lực đầu tư quan trọng, có vai trò to lớn trong quá trình thúc đẩy phát triển kinh tế của Việt Nam. Nguồn lực vốn, kỹ thuật, công nghệ từ FDI đã đóng góp rất lớn vào quy mô tăng trưởng kinh tế, xuất khẩu, tạo việc làm, tăng thu cho ngân sách nhà nước và thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế - xã hội trong thời gian qua.

Kể từ khi Việt Nam thực hiện công cuộc đổi mới năm 1986, quan hệ hợp tác kinh tế, trong đó bao gồm hợp tác về đầu tư đã phát triển mạnh mẽ. Trong hơn 35 năm qua, đầu tư nước ngoài, đặc biệt là FDI đã trở thành một nguồn lực đầu tư quan trọng, có vai trò to lớn trong quá trình thúc đẩy phát triển kinh tế của Việt Nam. Nguồn lực vốn, kỹ thuật, công nghệ từ FDI đã đóng góp rất lớn vào quy mô tăng trưởng kinh tế, xuất khẩu, tạo việc làm, tăng thu cho ngân sách nhà nước và thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế - xã hội trong thời gian qua.

NHỮNG CHÍNH SÁCH THU HÚT ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM

Mục tiêu thu hút đầu tư nước ngoài tại Việt Nam là thu hút vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý,... để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Ngoài ra khai thác có hiệu quả tài nguyên thiên nhiên, tạo công ăn việc làm cho người lao  động, mở rộng thị trường xuất khẩu,... Vì vậy mà chính phủ đã đưa ra các chính sách thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Chính sách thu hút đầu tư bao gồm

Với mục tiêu của chính sách đất đai là tạo điều kiện thuận lợi và hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài, bảo đảm cho các nhà đầu tư yên tâm và tin tưởng đầu tư lâu dài ở Việt Nam. Đặc điểm đặc thù ở Việt Nam đó là: đất đai là tài sản quốc gia, thuộc sở hữu toàn dân. Các nhà đầu tư nước ngoài không có quyền sở hữu về đất đai. Các loại văn bản pháp lý liên quan đến đất đai gắn với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài là Luật đất đai, Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam

Mức tiền thuê đất được xác định tùy thuộc vào:

+ Mức quy định khởi điểm của từng vùng

Với mục tiêu giải quyết việc làm, nâng cao tay nghề kỹ năng cho người lao động. Đặc biệt là nâng cao trình độ quản lý và cải thiện thu nhập cho người lao động tại Việt Nam. Việt Nam với số lượng lao động trẻ lớn, có khả năng thích ứng nhanh với công nghệ sản xuất. Đặc biệt là chi phí nhân công tại Việt Nam khá thấp. Vì vậy các doanh nghiệp nước ngoài có rất nhiều lợi thế khi sử dụng các động Việt Nam.

Bên cạnh đó chính phủ Việt Nam đã đưa ra các chính sách bảo vệ quyền lợi của cả người lao động và doanh nghiệp.

– Đối với người sử dụng lao động:

+ Nhiều giám đốc doanh nghiệp kể cả người được uỷ quyền điều hành không nắm vững những quy định của pháp luật lao động hoặc cố tình không tuân thủ những quy định của pháp luật như kéo dài thời gian làm việc trong ngày…

+ Trù dập người lao động khi họ đấu tranh bảo vệ quyền lợi chính đáng, chấm dứt hợp đồng tùy tiện hoặc sa thải người lao động trở lên căng thẳng.

+ Vi phạm các quy định về điều kiện làm việc điều kiện lao động và các tiêu chuẩn và quy phạm về an toàn lao động, vệ sinh lao động có nguy cơ gây tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp…

+Một số cán bộ giúp việc cho các chủ doanh nghiệp nước ngoài nắm các quy định của pháp luật không vững nên nhiều trường hợp dẫn đến những vi phạm pháp luật.

+ Phần đông thiếu sự hiểu biết về các quy định của pháp luật lao động, chưa nắm vững các chính sách, quyền lợi và nghĩa vụ của mình để tiến hành ký hợp đồng còn mang tính hình thức, bị thiệt thòi, bị áp đặt dẫn đến mâu thuẫn phát sinh tranh chấp.

+ Một số người lao động đòi hỏi vượt quá quy định pháp luật và do sự hạn chế về ngoại ngữ nên có những bất đồng do không hiểu nhau dẫn đến mâu thuẫn.

Tuy nhiên chính sách lao động còn những hạn chế. Mặc dù đã giải quyết được công ăn việc làm cho một lực lượng lao động nhất định, song mục tiêu nâng cao tay nghề cho công nhân, nâng cao trình độ quản lý cho đội ngũ cán bộ còn nhiều hạn chế.

Chính sách về thị trường tiêu thụ sản phẩm

– Thực hiện các chương trình kinh tế lớn, sản xuất hàng xuất khẩu và hàng thay thế hàng nhập khẩu.

-Sử dụng kỹ thuật cao, công nghệ hiện đại, đầu tư theo chiều sâu, khai thác và tận dụng các khả năng và nâng cao công suất của các cơ sở kinh tế hiện có.

– Sử dụng nhiều lao động, nguyên vật liệu và tài nguyên thiên nhiên sẵn có ở Việt Nam.

-Xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng.

– Dịch vụ thu tiền nước ngoài như dịch vụ du lịch, sửa chữa tàu, dịch vụ sân bay, cảng khẩu khác

Với mục tiêu của chính sách này là thu hút công nghệ, máy móc, thiết bị hiện đại của nước ngoài để phục vụ cho công cuộc công nghiệp hoá- hiện đại hóa đất nước. Đào tạo đội ngũ cán bộ kỹ thuật, công nhân lành nghề, thực hiện nội địa hoá công nghệ để tăng năng lực nội sinh của công nghệ. Điều này được khẳng định trong Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam là thu hút công nghệ hiện đại để đầu tư theo chiều sâu vào các cơ sở kinh tế hiện có hoặc thu hút công nghệ cao để sản xuất hàng xuất khẩu.

Thông qua thẩm định các dự án cho thấy, nhiều dự án phát huy tác dụng tốt trong chuyển giao công nghệ tiên tiến. Đặc biệt là trong lĩnh vực khai thác dầu khí, viễn thông, các ngành cơ khí nông nghiệp, máy móc công cụ, máy phục vụ ngành công nghiệp nhẹ.

Ưu đãi về thuế là một trong những chính sách và định hướng cụ thể của việc thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Trong chính sách ưu đãi về tài chính thường tập trung vào thuế như: thuế xuất nhập khẩu, thuế thu nhập doanh nghiệp,...

– Miễn thuế vốn: Chính phủ không thu thuế trên các khoản chuyển nhượng hay phần kiếm được từ cổ phiếu.

– Miễn giảm thuế suất, thuế thu nhập doanh nghiệp

Sau khi kinh doanh có lãi, trong một thời gian các nhà đầu tư được hưởng ưu đãi không phải nộp thuế. Sau một thời gian miễn thuế, các nước tiến hành giảm thuế

Trên đây là một trong những chính sách cơ bản về việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Việc khuyến khích các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào nước ta mang ý nghĩa cực kỳ to lớn đối với việc phát triển nền kinh tế xã hội. Mang tới nhiều lợi ích về kinh tế và

Việt Nam đã chuyển từ trang thái thu hút FDI trước đây sang hợp tác FDI hiện nay.

Ban hành Nghị quyết số 50-NQ/TW của Bộ Chính trị

Để lãnh đạo toàn diện về FDI, Bộ Chính trị, Đảng cộng sản Việt Nam đã ban hành một Nghị quyết riêng về FDI. Đó là Nghị quyết số 50-NQ/TW ngày 20/8/2019 của Bộ Chính trị về định hướng hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao chất lượng, hiệu quả hợp tác đầu tư nước ngoài đến năm 2030. Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ lúc đó với cương vị là Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng Chính phủ, là người rất tâm huyết, trực tiếp chỉ đạo và tham gia xây dựng từng nội dung của Dự thảo Nghị quyết quan trọng này.

Nghị quyết số 50-NQ/TW đã nhấn mạnh 05 quan điểm chỉ đạo, mục tiêu tổng quát, 05 mục tiêu cụ thể và 07 nhóm giải pháp, với 36 giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện thể chế, chính sách hợp tác đầu tư nước ngoài có tính cạnh tranh cao, hội nhập quốc tế; đáp ứng yêu cầu đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, bảo vệ môi trường, giải quyết tốt các vấn đề xã hội, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế; khắc phục căn bản những hạn chế, bất cập đang tồn tại trong xây dựng, hoàn thiện và tổ chức thực hiện thể chế, chính sách về hợp tác đầu tư nước ngoài, tạo điều kiện thuận lợi để chủ động thu hút, hợp tác đầu tư nước ngoài có chọn lọc, lấy chất lượng, hiệu quả, công nghệ và bảo vệ môi trường là tiêu chí đánh giá chủ yếu. Ưu tiên các dự án có công nghệ tiên tiến, công nghệ mới, công nghệ cao, công nghệ sạch, quản trị hiện đại, có giá trị gia tăng cao, có tác động lan toả, kết nối chuỗi sản xuất và cung ứng toàn cầu.

Trong quá trình tổng kết gần 35 năm thu hút và hợp tác FDI, đã rút ra các bài học kinh nghiệp như sau:

Một là, kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại trong thu hút và sử dụng ĐTNN. Ngoại lực là quan trọng, nội lực là quyết định. Luôn xác định khu vực ĐTNN là một bộ phận của nền kinh tế, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh.

Hai là, hợp tác ĐTNN là xu thế tất yếu trong nền kinh tế toàn cầu có tính cạnh tranh cao giữa các quốc gia. Tạo lập môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi, an toàn sẽ thu hút được cả nguồn vốn bên trong và bên ngoài. Các doanh nghiệp nội địa ngày một trưởng thành là nhân tố quan trọng để thu hút các dự án ĐTNN sử dụng công nghệ cao, tạo khả năng lan tỏa và chuyển giao công nghệ hiệu quả;

Ba là, dòng vốn ĐTNN bị tác động lớn từ những biến động về địa chính trị, chủ trương của các nước lớn và những xu hướng vận động của kinh tế thế giới; đòi hỏi phải có chính sách ứng phó: (i) chủ động, linh hoạt trong ngắn hạn; và (ii) toàn diện và tương đối ổn định trong trung và dài hạn;

Bốn là, thu hút và sử dụng ĐTNN là thước đo chất lượng thể chế, năng lực của bộ máy quản lý nhà nước, trình độ quản trị quốc gia, ngành, lĩnh vực và địa phương; Quốc gia nào có chất lượng thể chế tốt hơn, môi trường đầu tư, kinh doanh lành mạnh hơn sẽ thu hút được nhiều ĐTNN hơn. Phân cấp mạnh mẽ cho địa phương để tăng tính chủ động, sáng tạo nhưng gắn với cơ chế kiểm tra, giám sát chặt chẽ.

Năm là, việc xây dựng quan hệ đối tác bình đẳng, bền chặt, hiệu quả với nhà ĐTNN, cộng đồng doanh nghiệp nước ngoài có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với việc phát hiện, tháo gỡ những hạn chế, bất cập về chính sách, pháp luật ảnh hưởng đến hoạt động ĐTNN, từ đó củng cố niềm tin cho cộng đồng nhà ĐTNN.

Vai trò, đóng góp của ĐTNN đối với KTXH

Kể từ năm 1987, thời điểm thông qua Luật ĐTNN, cùng với công cuộc đổi mới theo tinh thần Đại hội đang lần thứ VI, nền kinh tế Việt Nam bắt đầu mở cửa, dần hội nhập với nền kinh tế thế giới, trong đó, ĐTNN đóng vai trò như một “cú hích”, tạo sự đột phá, vừa bổ sung nguồn lực quan trọng cho đầu tư phát triển, vừa khơi dậy các nguồn lực trong nước để khai thác, tận dụng các tiềm năng, lợi thế, đưa đất nước vượt qua giai đoạn khó khăn. Lũy kế tính đến ngày 20/3/2022, cả nước có 34.815 dự án ĐTNN còn hiệu lực, với tổng vốn đăng ký 422,8 tỷ USD và tổng vốn thực hiện khoảng 256 tỷ USD, bằng 60,5% tổng vốn đăng ký còn hiệu lực. Đóng góp quan trọng của dòng vốn FDI vào sự phát triển kinh tế chung của đất nước trong 35 năm qua thể hiện trên nhiều khía cạnh như sau:

Trước hết, ĐTNN là nguồn lực quan trọng đóng góp lớn vào tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội và đã trở thành một động lực tăng trưởng quan trọng của nền kinh tế. Tỷ trọng ĐTNN trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội đã tăng dần, từ gần 15% năm 2005 lên 23,7% năm 2021. Đóng góp của ĐTNN vào tăng trưởng kinh tế cũng ngày càng cao, từ 6% giai đoạn 1988-1996, 13,5% giai đoạn 1997-2005, 18,6% giai đoạn 2006-2015 và giai đoạn 2016-2020 là 21,3%.

Thứ hai, khu vực ĐTNN đóng góp lớn và ngày càng tăng vào thu ngân sách nhà nước với giá trị tăng từ 1,8 tỷ USD (giai đoạn 1994 - 2000) lên 14,2 tỷ USD (giai đoạn 2001 - 2010). Giai đoạn 2011 - 2015, thu ngân sách từ khu vực FDI đạt 23,7 tỷ USD, chiếm gần 14% tổng thu ngân sách; giai đoạn 2016 – 2020, đóng góp hơn 45,5 tỷ USD, chiếm 21,3% tổng thu ngân sách nhà nước.

Thứ ba, ĐTNN đã góp phần quan trọng thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Hiện nay, 59,2% vốn ĐTNN tập trung vào lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo, tạo ra trên 50% giá trị sản xuất công nghiệp, góp phần hình thành một số ngành công nghiệp chủ lực của nền kinh tế, như viễn thông, dầu khí, điện tử, công nghệ thông tin..., tạo nền tảng quan trọng cho tăng trưởng dài hạn, cũng như thúc đẩy quá trình hiện đại hóa - công nghiệp hóa của đất nước. Bên cạnh đó, ĐTNN đã góp phần phát triển nhiều ngành dịch vụ chất lượng cao, như tài chính - ngân hàng, bảo hiểm, kiểm toán, tư vấn luật, vận tải biển, logistics, giáo dục - đào tạo, y tế, siêu thị, khách sạn, du lịch...; tạo ra phương thức mới trong phân phối hàng hóa, tiêu dùng, góp phần kích thích hoạt động thương mại nội địa; chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp, nâng cao giá trị hàng hóa nông sản xuất khẩu, tạo ra một số phương thức sản xuất mới, góp phần cải thiện tập quán canh tác và điều kiện hạ tầng yếu kém, lạc hậu ở một số địa phương.

Thứ tư, ĐTNN thúc đẩy và mở rộng thị trường xuất khẩu, chuyển đổi cơ cấu mặt hàng xuất khẩu và từng bước đưa Việt Nam tham gia vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu. Khu vực ĐTNN cũng đã thực hiện chuyển giao công nghệ ở một số ngành, lĩnh vực và có tác động lan tỏa công nghệ nhất định tới khu vực doanh nghiệp trong nước; thúc đẩy phát triển công nghiệp hỗ trợ...

Thứ năm, việc thu hút và sử dụng ĐTNN trong 35 năm qua đã góp phần tích cực, giúp từng bước hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, tạo lập môi trường đầu tư kinh doanh thông thoáng, hấp dẫn, tiệm cận dần các chuẩn mực quốc tế; không ngừng nâng cao năng lực quản lý kinh tế, quản trị doanh nghiệp, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế.

Chính sách, cơ chế thu hút ĐTNN chung

- Liên tục hoàn thiện luật pháp, chính về đầu tư nước ngoài cho phù hợp và theo kịp với những biến động của kinh tế toàn cầu và những thay đổi trong chiến lược thu hút FDI của các nước trên thế giới; đồng thời tạo môi trường đầu tư kinh doanh cạnh tranh, thông thoáng, tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc về chính sách để tạo điều kiện thuận lợi nhất cho hoạt động của các doanh nghiệp, nhà đầu tư. Để tháo gỡ nhanh chóng và triệt để các khó khăn, vướng mắc cho doanh nghiệp, Quốc hội và Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ đã rất quyết liệt trong việc cho phép việc xây dựng luật theo hướng 01 luật sửa đổi, bổ sung nhiều luật khác nhau về các vấn đề liên quan đến đầu tư, kinh doanh.

- Duy trì ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm các cân đối của nền kinh tế, nâng cao sức cạnh tranh trong thu hút đầu tư nước ngoài; có chiến lược đúng trong xử lý dịch COVID- 19, đồng thời đẩy nhanh quá trình tiêm chủng để đưa các hoạt động kinh tế, xã hội trở lại bình thường, xóa bỏ tình trạng đứt gãy chuỗi cung ứng hàng hóa, lao động tạo dựng niềm tin và sự an tâm của các nhà đầu tư nước ngoài.

- Ưu tiên các nguồn lực tập trung đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng động bộ, trong đó chuẩn bị sẵn sàng các điều kiện cần thiết để thu hút đầu tư như rà soát, bổ sung quỹ đất sạch, rà soát lại quy hoạch điện và đôn đốc triển khai các dự án điện, tăng cường việc đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, bổ sung chính sách và các biện pháp để phát triển công nghiệp hỗ trợ.

- Cải cách quyết liệt, đồng bộ, hiệu quả quy định thủ tục hành chính liên quan đến người dân, doanh nghiệp; thủ tục hành chính nội bộ giữa cơ quan hành chính nhà nước; rà soát, cắt giảm, đơn giản hóa điều kiện kinh doanh, thành phần hồ sơ và tối ưu hóa quy trình giải quyết thủ tục hành chính trên cơ sở ứng dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin; bãi bỏ các rào cản hạn chế quyền tự do kinh doanh, cải thiện, nâng cao chất lượng môi trường đầu tư kinh doanh, bảo đảm cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng, minh bạch... Vấn đề này, ngày hôm qua trong cuộc gặp mặt của Chủ tịch Quốc hội Việt Nam Vương Đình Huệ với đại diện các doanh nghiệp Việt Nam tại Lào, nhiều ý kiến của doanh nghiệp đề nghị Quốc hội, Chính phủ Lào xem xét, sửa đổ, bổ sung các quy định về việc cấp Giấy phép hoạt động trong lĩnh vực nông, lâm nghiệp với thời hạn 05 năm thay vì 01 năm như hiện nay; điều chỉnh quy định về thời hạn thăm dò, khảo sát khoáng sản dài hơn so với quy định hiện hành nhằm tạo điều kiện thuận lợi hơn cho nhà đầu tư, kinh doanh của doanh nghiệp…

- Xây dựng các quy định, tiêu chuẩn như một bộ lọc mới nhằm lựa chọn các nhà đầu tư nước ngoài có công nghệ tiên tiến, thân thiện với môi trường, có năng lực, khả năng chống chịu sức ép từ bên ngoài để phát triển bền vững và bảo đảm an ninh quốc gia của đất nước.

- Thường xuyên đổi mới và tăng cường công tác xúc tiến đầu tư, trong đó tập trung xúc tiến đầu tư thông qua các hình thức như: (i) Tăng cường xúc tiến đầu tư thông qua các hoạt động tiếp xúc cấp cao của các nhà Lãnh đạo Đảng, Nhà nước với các Lãnh đạo Nhà nước, Chính phủ và các đối tác đầu tư lớn để tiếp cận các dự án đầu tư lớn, mang tính chiến lược; (ii) Xúc tiến đầu tư tại chỗ (tăng cường công tác đối thoại giữa Quốc hội, Chính phủ, chính quyền địa phương, các cơ quan chuyên môn với doanh nghiệp, nhà đầu tư để tập trung giải quyết nhanh, dứt điểm các khó khăn, vướng mắc, đẩy nhanh thực hiện dự án, hỗ trợ để các nhà đầu tư thành công, tiếp tục mở rộng đầu tư kinh doanh tại Việt Nam); (iii) Chủ động tiếp xúc trực tiếp các nhà đầu tư lớn, nhất là các nhà đầu tư chiến lược, thậm chí phải có chích sách ưu đại đặc biệt để giữ chân các nhà đầu tư trên tinh thần hai bên cùng có lợi; (iv) Phối hợp chặt chẽ với các cơ quan ngoại giao, các hiệp hội doanh nghiệp, các công ty tư vấn, công ty luật, ngân hàng, quỹ đầu tư để tiếp cận lên danh sách các doanh nghiệp đang có quan tâm đến đầu tư tại Việt Nam để chủ động tiếp cận, trao đổi, mời vào đầu tư tại Việt Nam; (v) Tổ chức các hoạt động XTĐT theo hình thức trực tuyến trong bối cảnh Covid 19 phức tạp.

- Hỗ trợ doanh nghiệp trong đào tạo và tuyển dụng lao động đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế, đặc biệt nhu cầu của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài sau các đợt đứt gẫy về nguồn lao động. Bên cạnh dạy kỹ năng nghề, cần đào tạo nâng cao kỷ luật lao động, các kỹ năng mềm, khả năng hợp tác và chia sẻ kinh nghiệm để lao động Việt Nam vừa có kỹ năng nghề cao và có tính chuyên nghiệp, đáp ứng nhu cầu lao động của doanh nghiệp trong thời kỳ cách mạng công nghiệp 4.0./.

Chính sách hỗ trợ doanh nghiệp bị ảnh hưởng bởi COVID 19

- Thực hiện các biện pháp phòng, chống dịch linh hoạt, hiệu quả để tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động sản xuất, kinh doanh gắn với bảo đảm an toàn phòng, chống dịch.

- Đảm bảo ổn định sản xuất, lưu thông hàng hoá thông suốt, hiệu quả, an toàn, khắc phục gián đoạn chuỗi cung ứng.

- Hỗ trợ cắt giảm chi phí, tháo gỡ khó khăn về tài chính, dòng tiền cho doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh. Hỗ trợ phục hồi doanh nghiệp: miễn giảm thuế, hỗ trợ lãi xuất, hỗ trợ người lao động,…;

- Tạo điều kiện thuận lợi về lao động, nhập cảnh cho chuyên gia. Hiện nay đã bỏ hoàn toàn các hạn chế về nhập cảnh do dịch bệnh.

- Thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch COVID-19, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh.

- Chương trình hỗ trợ doanh nghiệp chuyển đổi số giai đoạn 2021-2025;

- Chương trình hỗ trợ doanh nghiệp khu vực tư nhân kinh doanh bền vững giai đoạn 2022 -2025

Hiện nay Việt Nam đã phân cấp hoàn toàn việc cấp, điều chỉnh Giấy CNĐKĐT và quản lý dự án cho các địa phương. Các Sở KHĐT và BQL KCN KKT là cơ quan cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư. Bộ Kế hoạch và Đầu tư chỉ thẩm định một số dự án quy mô lớn và làm chiến lược, chính sách về ĐTNN. Việc phân cấp toàn diện có mặt được và hạn chế như sau:

- Rút ngắn thời gian làm thủ tục đầu tư, góp phần cải thiện môi trường đầu tư

- Tránh quá tài công việc ở các cơ quan Trung ương.

- Nâng cao năng lực quản lý và hỗ trợ nhà đầu tư của cán bộ địa phương

- Việc hỗ trợ, giải quyết khó khăn, vướng mắc cho nhà đầu tư thuận lợi hơn do ko phải di chuyển lên trung ương.

- Trung ưng khó thực hiện chức năng điều phối thu hút đầu tư theo đúng định hướng trong từng thời kỳ. Thực tế đã xuất hiện tình trạng đầu tư theo phong trào, theo số lượng, điều này làm ảnh hưởng đến việc sử dụng các nguồn lực của các địa phương chưa hiệu quả.

- Cơ quan trung ương hạn chế trong kinh nghiệm thực tiễn để làm chính sách.

- Sự cạnh tranh giữa các địa phương dẫn đến thu hút dự án chất lượng thấp, ảnh hưởng đến môi trường, KT-XH. Thực tế đã có xu hướng đầu tư theo phong trào, thiên về số lượng, làm ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng nguồn lực.

- Năng lực cán bộ địa phương còn yếu, khó khăn trong việc xử lý các trường hợp khó, gây khiếu kiện, khiếu nại.

* Kinh nghiệm phân cấp quản lý nhà nước về đầu tư ở Việt Nam cho thấy:

Chủ trương phân cấp là đúng đắn, tạo động lực to lớn để phát triển. Tuy nhiên, để công tác phân cấp thành công thì lưu ý một số vấn đề sau: (i) Cần có lộ trình phù hợp, lựa chọn các ngành, lĩnh vực, dự án (loại dự án, quy mô dự án và điều kiện nhất định) để phân cấp dần, bảo đảm phù hợp điều kiện cần thiết và đầy chủ cho cả cơ quan phân cấp và cơ quan được phân cấp (cả về con người, cơ sở vật chất, trong bối cảnh cải bộ máy và ngân sách hành chính không tăng); (ii) Hệ thống pháp luật phải đồng bộ, đầy đủ, trong đó quy định rõ những nội dung cấm đầu tư kinh doanh, hạn chế đầu tư kinh doanh; điều kiện gia nhập thị trường; quy trình, thủ tục phải rõ rang, minh bạch; (iii) Công tác quy hoạch và phải chú trọng; (iv) Nghiên cứu, đánh giá tác động kỹ lưỡng trước khi thực hiện phân cấp (có thể tiến hành thí điểm trước tại một số địa phương, từ đó rút kinh nghiệm để nhân rộng mô hình); (v) Chú ý tới năng lực cán bộ, cơ sở vật chất, điều kiện thực hiện của cơ quan được phân cấp và năng lực quản lý của cơ quan phân cấp sau khi thực hiện phân cấp; (vi) Tăng cường công tác tập huấn, hướng dẫn cho các địa phương, đặc biệt là các địa phương chưa có nhiều kinh nghiệm; (vii) Cơ quan Trung ương phải tăng cường công tác rà soát, kiểm tra, giám sát “hậu phân cấp”; (viii) Tăng cường các công cụ quản lý nhà nước như: cơ chế phối hợp giữa các cơ Trung ương ương với nhau, giữa trung ương với địa phương; Xây dựng Hệ thông thông tin quốc gia về đầu tư để thực hiện công tác quản lý và giám sát đầu tư có hiệu quả.

Nói tóm lại, thực hiện phân cấp mạnh mẽ cho địa phương để tăng tính chủ động, sáng tạo nhưng gắn với cơ chế kiểm tra, giám sát chặt chẽ./.